Bản án về tội cướp giật tài sản số 49/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 49/2023/HS-ST NGÀY 06/07/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 37/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2023/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Hà Kiến G, sinh năm 1974; tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú :

219/52D ADL, Phường B, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh ; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 2/12 ; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Tô T và bà Dương Ngọc C. Vợ : Nguyễn Thị Thu N có 02 con, lớn sinh 1995 và nhỏ sinh 2002 ; tiền án: ngày 06/7/2016 Tòa án nhân dân Quận 5 xử phạt 04 năm 06 sáu tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án số 137/2006/HSST; tiền sự : ngày 07/7/2020 Tòa án nhân dân Quận 5 áp dụng biện pháp xử lý đưa vào cơ sở cai nhiện bắt buộc, thời gian 20 tháng kể từ ngày 08/5/2020. Nhân thân: ngày 04/5/1999 Tòa án nhân dân Quận 5 xử phạt 10 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” ,ngày 19/02/2008 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù từ ngày 07/01/2011.Bị bắt tạm giữ tạm giam tại Trại tạm giam T30 Công an Tp. Hồ Chí Minh từ ngày 01/9/2022 (có mặt).

- Người bị hại: Chị Võ Thị Thanh T1, sinh năm 2004 (vắng mặt). Địa chỉ: 32/2 Tổ S, khu phố B1, phường THT, Quận 12, Tp.HCM Nơi ở hiện nay : 29/5G ấp M, xã TX, huyện Hóc Môn, Tp.HCM

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thu N1, sinh năm 1970 (vắng mặt).

Địa chỉ: 68/33 HVB, phường N2, Quận Phú Nhuận, Tp.HCM

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 31/8/2022, chị Võ Thị Thanh T1 đang đứng ở đầu hẻm 116 VC, Phường B2, Quận 3 sử dụng điện thoại di động hiệu Oppo Renno 5 thì bị Hà Kiến G điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Vision mà trắng, biển số:  59K2- 070XX áp sát bên phải và dùng tay trái nhanh chóng giật lấy điện thoại di động của chị Tiền rồi cho xe tăng ga bỏ chạy về hướng đường NĐC. Sau đó, Giai chạy xe về nhà của cháu vợ tên Nguyễn Thành T2 (tên thường gọi là H) tại C4/9 PH, xã BH, huyện Bình Chánh. Giai dựng xe máy trước sân rồi vào nhà G có đưa điện thoại vừa cướp giật được cho vợ chồng H để mượn tiền nhưng không được nên ngồi chơi và tháo 02 sim điện thoại ra và cất giữ trong người. G không nói cho vợ chồng H biết là điện thoại vừa cướp giật được. Sau khi bị giật điện thoại, chị T1 đã nhờ bạn định vị và sau đó cùng bạn là anh Du Chí N3, anh Nguyễn Minh Q, anh Lê Văn Thanh B3 đến số C4/9 PH, xã BH, huyện Bình Chánh thì chị T1 nhận ra xe của đối tượng đang dựng trước nhà, sau đó gặp Hà Kiến G từ trong nhà đi ra, chị T1 xác định và giai thừa nhận đã giật điện thoại của chị T1 nên G đã trả lại điện thoại cho chị T1. Lúc này, chị T1 cùng bạn đưa Hà Kiến G đên Công an Phường B1, Quận 3 trình báo. Công an Phường B1, Quận 3 lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 để điều tra theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan Công an, Hà Kiến G khai nhận như trên, do thiếu tiền nên đã thực hiện hành vi cướp giật tài sản bán lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Kết luận định giá tài sản số 118/KL-HĐĐGTS ngày 10/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 3 kết luận: điện thoại di đông nhãn hiệu Oppo Renno 5, màu xanh den, số Imei 1: 865545053509921, số Imei 2: 865545053509921 đã qua sử dụng, vào thời điểm tháng 8/2022 là 3.400.000 đồng (Bút lục 64).

Vật chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Renno 5 , màu xanh den, số Imei 1:

865545053509921, số Imei 2: 865545053509921. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 đã trả lại cho bị hại Võ Thị Thanh T1 (Bút lục số 74-75).

- 01 túi nilong bên trong có: 01 nón bảo hiểm màu đen và 01 đôi dép màu đen;

01 túi nilong bên trong có: 01 áo màu xám và 01 quần dài màu nâu đen đã được niêm phong có chữ ký của Hà Kiến G và dấu mộc của Công an Phường 4, Quận 3. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 đã nhập kho vật chứng theo lệnh nhập kho vật chứng số 611 ngày 01/9/2022 (Bút lục số 71-71).

- 01 xe máy Honda Vision, màu trắng, biển số 59K2-070XX, số khung: RLHJF5810HGY112371; số máy: JF66E0112393. Qua xác minh xe do bà Nguyễn Thị Thu N1 (địa chỉ: 68/33 HVB, Phường N2, Quận Phú Nhuận), do vợ của Hà Kiến G đứng tên chủ sở hữu, Hà Kiến G tự lấy xe máy đi, bà N1 không biết G sử dụng xe của bà để đi cướp giật tài sản . Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3 đã nhập kho vật chứng theo Lệnh nhập kho vật chứng theo Lệnh nhập kho vật chứng số 645 ngày 18/12/2022 (Bút lục số 72-73).

- Yêu cầu dân sự: Bị hại Võ Thị Thanh T1 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường.

Tại bản cáo trạng số 38/CT-VKS-Q3 ngày 21/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đã truy tố bị cáo Hà Kiến G về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay :

- Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đề nghị xử phạt bị cáo từ 05 (năm) năm tù đến 06 (sáu) năm tù giam; Tịch thu và tiêu hủy quần áo bị cáo Hà Kiến G mặc khi thực hiện hành vi cướp giật gồm: 01 nón bảo hiểm màu đen và 01 đôi dép màu đen; 01 áo màu xám và 01 quần dài màu nâu đen; 01 xe máy Honda Vision, màu trắng, biển số 59K2-070XX, số khung: RLHJF5810HGY112371; số máy: JF66E0112393 giao trả cho bà Nguyễn Thị Thu N1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố của Cơ quan điều tra Công an Quận 3, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, kiểm sát viên đã thực hiện các hành vi, quyết định tố tụng đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo Bộ luật tố tụng hình sự qui định. Quá trình điều tra bị cáo cũng không có bất cứ ý kiến hoặc khiếu nại gì về các hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng cũng như người tiến hành tố tụng. Vì vậy có cơ sở xác định các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với nội dung Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm do Công an Phường B1, Quận 3 lập ngày 31/8/2022 (BL 41);phù hợp nội dung các lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra. Vì vậy đã có đủ cơ sở kết luận như sau: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 31/8/2022, chị Võ Thị Thanh T1 đang đứng ở đầu hẻm 116 VC, Phường B, Quận 3 thì bị Hà Kiến G điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Vision mà trắng, biển số: 59K2-070XX áp sát bên phải và dùng tay trái nhanh chóng giật lấy điện thoại di động hiệu Oppo Renno 5 màu xanh đen của chị T1 rồi cho xe tăng ga bỏ chạy về hướng đường NDC.

[3] Xét, bị cáo biết rõ hành vi cướp giật tài sản của người khác là sai trái, vi phạm pháp luật nhưng vì lòng tham nên vẫn bất chấp xem thường sự trừng trị của pháp luật cố ý thực hiện việc phạm tội. Hành vi do bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã không chỉ trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương.

[4] Căn cứ từ các yếu tố nêu trên, đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo G điều khiển xe máy hiệu honda vison màu trắng biển số 59K2-070.78 đã nhanh chóng chiếm đoạt được của chị Võ Thị Thanh T1 một điện thoại di động hiệu Oppo Renno 5 màu xanh đen trị giá 3.400.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự.

[5] Xét ngày 06/7/2016 Tòa án nhân dân Quận 5 xử phạt 04 năm 06 sáu tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo bản án số 137/2006/HSST chưa được xóa án tích lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm và thủ đoạn sử dụng xe gắn máy làm phương tiện để cướp giật tài sản nơi đường phố đông người qua lại là rất nguy hiểm thuộc trường hợp định khung quy định tại điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

[6] Xét, bị cáo có nhân thân xấu: ngày 04/5/1999 Tòa án nhân dân Quận 5 xử phạt 10 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, ngày 19/02/2008 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Vì vậy cần phải có mức án nghiêm khắc mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo.

[7] Tuy nhiên cũng xét, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn, hối lỗi nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Từ những cơ sở trên, nghĩ cần căn cứ Điều 50 Bộ luật Hình sự quy định về căn cứ quyết định hình phạt, Điều 38 Bộ luật Hình sự quy định về tù có thời hạn; áp dụng điểm d, i khoản 2 Điều 171 về khung hình phạt áp dụng; áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để quyết định một hình phạt tương xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 nón bảo hiểm màu đen và 01 đôi dép màu đen; 01 áo màu xám và 01 quần dài màu nâu đen là phương tiện phạm tội nghĩ nên tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 01 xe máy Honda Vision, màu trắng, biển số 59K2-070XX, số khung: RLHJF5810HGY112371; số máy: JF66E0112393 không liên quan đến vụ án nghĩ nên giao trả cho bà Nguyễn Thị Thu N1.

[10] Trách nhiệm dân sự: bị hại Võ Thị Thanh T1 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 tại phiên tòa là phù hợp tính chất, mức độ phạm tội, phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử, nghĩ nên chấp nhận.

[12] Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d,i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với Hà Kiến G.

Căn cứ điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Luật phí và lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ các Điều 331, 333, 336 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tuyên bố bị cáo Hà Kiến G đã phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt : Hà Kiến G 06 (sáu) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 01/9/2022.

- Tịch thu và tiêu hủy 01 nón bảo hiểm màu đen và 01 đôi dép màu đen; 01 áo màu xám và 01 quần dài màu nâu đen.

- Giao trả cho bà Nguyễn Thị Thu N1 01 xe máy Honda Vision, màu trắng, biển số 59K2-070XX, số khung: RLHJF5810HGY112371; số máy: JF66E0112393 (Tài sản tịch thu và tiêu hủy, giao trả cho Nguyễn Thị Thu N1 được ghi trong Lệnh nhập kho vật chứng số 645/LNK-CQCSĐT-ĐTTH ngày 18/12/2022 và Lệnh nhập kho vật chứng số 611/LNK-CQCSĐT-ĐTTH ngày 01/9/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 3).

Buộc bị cáo chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh trong trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án, hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

92
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 49/2023/HS-ST

Số hiệu:49/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về