Bản án về tội cướp giật tài sản số 49/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 49/2022/HS-ST NGÀY 26/10/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2022/HSST ngày 01/10/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2022/QĐXXST-HS ngày 12/10/2022 đối với:

* Bị cáo: Nguyễn Văn P, sinh ngày: 10/5/1987, tại xã Cẩm M, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn Q, xã Cẩm M, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 8/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Quần chúng; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1959 và con bà Nguyễn Thị T (Đã chết); Tiền sự: Không; Tiền án: Có 04 tiền án.

Ngày 01/11/2006, bị Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, tại Bản án số 16/2006/HSST, chưa được xóa án tích.

Ngày 08/4/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999, tại Bản án số 89/2009/HSST, với tình tiết tăng nặng “Tái phạm”, chưa được xóa án tích.

Ngày 05/12/2013 bị Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, với tình các tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” và “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” theo quy định tại Điểm c, d Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999, tại Bản án số 430/2013/HSST, chưa được xóa án tích.

Ngày 21/8/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, với tình tiết định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại Điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017, tại Bản án số 52/2018/HSST. Nguyễn Văn P chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 20/5/2019 và chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/4/2022, chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 08/5/2022, đến ngày 11/5/2022 bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn P: Ông Nguyễn Khánh T - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Hà Tĩnh (Có mặt)

* Người bị hại: Chị Lê Thị T, sinh năm 1983; Nghề nghiệp: Lao động tự do;

Trú tại: Thôn Trung T, xã Kỳ K, huyện Kỳ A, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt)

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Văn A, sinh năm 1989; Nghề nghiệp: Lao động tự do;

Trú tại: Thôn Q, xã Cẩm M, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt)

- Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1983; Nghề nghiệp: Lao động tự do;

Trú tại: Thôn Quốc T, xã Cẩm M, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt)

* Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 2002; Trú tại: Thôn Q , xã Cẩm M, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 05/5/2022, Nguyễn Văn P điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter biển kiểm soát 38X1-253... đến Công an huyện Cẩm Xuyên làm căn cước công dân. Sau khi làm xong căn cước, P điều khiển xe mô tô đi đến đoạn ngã ba giao nhau giữa Quốc lộ 1A với đường lên hồ Kẻ Gỗ, thuộc địa phận tổ dân phố 10, thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên, nhìn thấy chị Lê Thị T điều khiển xe mô tô Wave, biển kiểm soát 38K1-568... đi phía trước cùng chiều hướng đi ra thành phố Hà Tĩnh, trên người đeo 01 chiếc túi xách, loại dây đeo chéo nên P nảy sinh ý định cướp giật túi xách. Để thực hiện ý định của mình, P điều khiển xe đi theo sau xe chị T. Đến khoảng 10 giờ 30 Pt cùng ngày, khi chị T đến đoạn đường Quốc lộ 1A, thuộc địa phận thôn 5, xã Cẩm Quang, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh (cách cầu Cống, xã Cẩm Thành khoảng 29 mét), quan sát thấy xung quanh không có người qua lại nên điều khiển xe áp sát phía bên phải xe của chị T đang điều khiển rồi dùng tay trái giật mạnh chiếc túi xách chị T đang đeo làm một đầu nối dây bị đứt. Khi giật được chiếc túi xách, P kẹp ở giữa hai chân và điều khiển xe bỏ chạy. Khi đi đến khu vực trục đường bê tông, thuộc địa phận tổ liên gia Chòm Nam, thôn Tam Đồng, xã Cẩm Vịnh, huyện Cẩm Xuyên, P dừng xe, mở túi xách ra kiểm tra bên trong có 01 chiếc điện thoại OPPO A74, số tiền 1.600.000 đồng và một số giấy tờ. P lấy toàn bộ tiền và điện thoại, vứt túi xách, vỏ ốp điện thoại và các tài sản khác xuống ao nước gần đó. Trên đường về, P tắt nguồn điện thoại, tháo sim vứt tại tuyến đường bê tông, kênh nước hồ Kẽ Gỗ, thuộc thôn Trung Thành, xã Cẩm Duệ, huyện Cẩm Xuyên. Chiếc điện thoại cướp giật được, P cất giấu trong tủ ở phòng bếp gia đình, trong số tiền 1.600.000 đồng P đã chi tiêu hết 100.000 đồng. Ngày 08/5/2022, Nguyễn Văn P đến Công an huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh đầu thú, tự nguyện giao nộp chiếc điện thoại OPPO A74 và số tiền 1.500.000đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 05/KL-HĐĐG ngày 17/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện Cẩm Xuyên, kết luận: 01 chiếc túi xách màu đen, loại dây đeo chéo màu đen, có 03 ngăn khóa màu bạc, chiếc túi bị đứt 01 bên dây đeo, đã qua sử dụng, giá trị còn lại 50.000 đồng; 01 ốp nhựa dẻo, trong suốt loại máy OPPO A74, đã qua sử dụng giá trị còn lại 10.000 đồng; 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO A74, màu xanh dương, có số IMEI: 86082105372898, đã qua sử dụng, giá trị còn lại 5.000.000 đồng.

Tổng trị giá tài sản mà Nguyễn Văn P đã chiếm đoạt của chị Lê Thị T là 6.660.000 đồng.

Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, BKS 38X1-253..., Nguyễn Văn P sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội có Giấy chứng nhận đăng ký số 012163 mang tên Nguyễn Văn A, địa chỉ thôn 6 xã Cẩm M, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh, do Công an huyện Cẩm Xuyên cấp ngày 30/10/2017. Quá trình điều tra xác định vào năm 2020 anh Nguyễn Văn A đã bán chiếc xe cho anh Nguyễn Văn T (trú tại thôn Q, xã Cẩm M) với giá 25.000.000 đồng. Tuy nhiên, thời điểm mua xe anh T đang lao động tại tỉnh Attupeu, nước Lào nên đã chuyển tiền trả trước cho anh T 20.000.000 đồng, hai bên thống nhất giao xe cho anh Ánh quản lý, sử dụng. Ngày 20/4/2022, Nguyễn Văn P được anh A cho mượn làm phương tiện đi lại.

* Về vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên đã thu giữ:

- Số tiền 1.500.000 đồng Ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành, thu của Nguyễn Văn P, đã trả lại cho chị Lê Thị T.

- 01 chiếc điện thoại OPPO A74, màu xanh dương, bên trong không gắn thẻ sim, đã qua sử dụng, thu của Nguyễn Văn P, đã trả lại cho chị Lê Thị T.

- 01 dây đeo túi xách màu đen, hai đầu gắn móc khóa bằng kim loại dài 130 cm, đã qua sử dụng; 01 ốp nhựa điện thoại màu trong suốt, loại ốp của điện thoại OPPO A74, đã qua sử dụng; 01 túi xách loại dây đeo chéo màu đen, loại 03 ngăn khóa màu bạc, dạng hình chữ nhật có kích thước bề mặt 20 x 15 cm, đã qua sử dụng bên trong có chứa các giấy tờ gồm: 01 thẻ ATM ngân hàng Techcombank, có số thẻ 9704079992721617, trên bề mặt in nổi dòng chữ “LE THI T”; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số: 38 000161 của chiếc xe mô tô Wave, BKS 38K1-568... mang tên Lê Thị T; 01 căn cước công dân số 038183049032 mang tên Lê Thị T; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe mô tô số: XG21-BB 0130087 mang tên Lê Thị T, đã trả lại cho chị Lê Thị T.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter 2009, màu đen vàng, BKS 38X1-253....

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số: 012163, mang tên Nguyễn Văn A, thu của Nguyễn Văn A.

Đối với chiếc sim số 0377.137.156 gắn trong chiếc điện thoại di động OPPO A74. Quá trình điều tra, Nguyễn Văn P khai nhận: Sau khi chiếm đoạt, P đã tháo sim vứt tại tuyến đường bê tông, kênh nước hồ Kẽ Gỗ, thuộc địa phận thôn Trung Thành, xã Cẩm Duệ, huyện Cẩm Xuyên. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không có kết quả. Hiện chị T đã tự khắc phục, không yêu cầu Nguyễn Văn P phải bồi thường.

* Về trách nhiệm dân sự: Nguyễn Văn P đã tác động nhờ gia đình bồi thường cho người bị hại chị Lê Thị T số tiền 150.000 đồng, trong đó: 100.000 đồng đã chi tiêu và 50.000 đồng trị giá chiếc túi xách bị hư hỏng, các tài sản khác đã được thu hồi trả lại cho người bị hại.

Với hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số: 48/CT-VKSCX ngày 28/9/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố Nguyễn Văn P về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại Điểm d, i Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm d, i Khoản 2 Điều 171; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt Nguyễn Văn P mức án từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 08/5/2022; Về xử lý vật chứng: Trả lại cho anh Nguyễn Văn A 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter 2009, BKS 38X1-253...; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số: 012163, mang tên Nguyễn Văn A; Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo nhất trí về hành vi, tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, có điều kiện hoàn cảnh khó khăn, sau khi phạm tội đã ra đầu thú. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt và xem xét để xử phạt bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng; bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo và có đơn xin miễn án phí nên đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ tài liệu có tại hồ sơ đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thấy rằng:

[1] Về tính hợp pháp của quyết định và hành vi của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội: Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo là khách quan, phù hợp với Cáo trạng truy tố, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Khoảng 10 giờ 30 Pt, ngày 05/5/2022, trên đường Quốc lộ 1A, thuộc địa phận thôn 5, xã Cẩm Quang, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, Nguyễn Văn P điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát 38X1-253... theo hướng từ Nam ra Bắc, áp sát xe mô tô biển kiểm soát 38K1-568... do chị Lê Thị T điều khiển cùng chiều, dùng tay trái giật lấy chiếc túi xách chị T đang đeo trên người, bên trong có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A74, 01 ốp nhựa của điện thoại OPPO A74, tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành 1.600.000 đồng và một số giấy tờ tùy thân. Tổng trị giá tài sản Nguyễn Văn P đã chiếm đoạt của chị Lê Thị T là 6.660.000 đồng. Sau khi chiếm đoạt được tài sản, P đã sử dụng hết 100.000 đồng. Đến ngày 08/5/2022, Nguyễn Văn P đã đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình, giao nộp số tiền còn lại 1.500.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A74.

Hành vi trên của Nguyễn Văn P đã cấu thành tội “Cướp giật tài sản” với tình tiết định khung “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” và “Tái phạm nguy hiểm” được quy định tại Điểm d, i Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự. Do đó, việc xét xử bị cáo về tội danh, điều luật như Cáo trạng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất hành vi phạm tội và hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận xấu trong nhân dân. Bị cáo lợi dụng sự sơ hở của chủ tài sản rồi có hành vi cướp giật chiếm đoạt, với trị giá tài sản 6.660.000 đồng. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trong điều kiện đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và chỉ một mình bị cáo thực hiện. Mặt khác, bị cáo đang có 04 tiền án nhưng không lấy đó làm bài học để cải tạo, sữa chữa sai lầm mà còn tiếp tục phạm tội. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm minh, tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo và cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên tại phiên tòa.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không chịu tình tiết tăng nặng nào; Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường dân sự cho người bị hại 150.000đồng, các tài sản còn lại đã được thu hồi trả lại cho người bị hại, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú; gia đình bị cáo thuộc đối tượng cận nghèo.

Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter 2009, BKS 38X1-253..., mà Nguyễn Văn P sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra xác chủ sở hữu là anh Nguyễn Văn T, tại thời điểm phạm tội anh T giao cho anh Nguyễn Văn A quản lý, sử dụng. Ngày 20/4/2022, anh A cho P mượn chiếc xe mô tô trên để làm phương tiện đi lại. Việc P sử dụng chiếc xe để thực hiện hành vi cướp giật tài sản anh Nguyễn Văn A không biết, vì vậy cần trả lại chiếc xe này cho anh Nguyễn Văn A.

[7] Anh Nguyễn Văn A, có trách nhiệm quản lý, sử dụng chiếc xe mô tô biển kiểm soát 38X1-253... của anh Nguyễn Văn T. Qúa trình điều tra xác định, khi cho P mượn xe mô tô làm phương tiện đi lại và P đã sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội thì anh A không biết nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên không đề cập hình thức xử lý là có căn cứ.

[8] Về án phí: Bị cáo thuộc đối tượng hộ cận nghèo và có đơn xin miễn án phí. Căn cứ vào Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điểm d, i Khoản 2 Điều 171; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 08/5/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Khoản 1, Điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả lại anh Nguyễn Văn A (Trú tại: Thôn Quốc Tuấn, xã Cẩm M, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh): 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Exciter, màu đen vàng số máy 5P71044074, số khung P710AY044074, BKS 38X1-253..., đã qua sử dụng; 01 (Một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 012163, mang tên Nguyễn Văn A, loại xe đăng ký Exciter, nhãn hiệu Yamaha, BKS 38X1-253... do Công an huyện Cẩm Xuyên cấp ngày 30/01/2017.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng được ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/9/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cẩm Xuyên và Chi cục thi hành án dân sự huyện Cẩm Xuyên)

3. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 135, Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 3, Khoản 1 Điều 21, Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Văn P.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

52
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 49/2022/HS-ST

Số hiệu:49/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về