Bản án về tội cướp giật tài sản số 42/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 42/2022/HS-ST NGÀY 17/08/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 37/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2022/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Đng Tuấn C, sinh năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 170/19/19 Đường H, Phường N, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: không có nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Không; học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn H (chết) và bà Trần Thị K (sinh năm 1957); hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con;

Tiền án: 01 Ngày 19/12/2011, Tòa án nhân dân Quận G xử 01 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và 04 năm tù về tội “Giao cấu với trẻ em”, tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 05 năm tù tại Bản án số 265/HSST ngày 19/12/2011 (ngày 31/8/2013 chấp hành xong hình phạt chính, án phí chưa thi hành).

Tiền sự: 01 Ngày 11/3/2021, Tòa án nhân dân Quận S ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian chấp hành 15 tháng tại Cơ sở cai nghiện ma túy Phước Bình (Quyết định số 112/2021/QĐ-TA ngày 11/3/2021).

Nhân thân:

Ngày 07/4/2016, Tòa án nhân dân Quận D ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian chấp hành 21 tháng tại Trung tâm chữa bệnh Đức Hạnh (Quyết định số 21/2016/TLST-XLHC ngày 07/4/2016).

Ngày 10/8/2018, Tòa án nhân dân Quận G ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian chấp hành 18 tháng tại Cơ sở cai nghiện Phú Văn (Quyết định số 174/QĐ-TA ngày 10/8/2018).

Ngày 16/6/2014, Tòa án nhân dân Quận G xử 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” tại Bản án số 140/HSST ngày 16/6/2014 (ngày 06/01/2016 chấp hành xong hình phạt chính, án phí chưa thi hành do cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền chưa nhận được bản án và không thụ lý, dẫn đến ngày thực hiện hành vi phạm tội mới thì đã hết thời hiệu thi hành nên đương nhiên được xóa án tích).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/4/2022 tại Nhà tạm giữ Công an Quận Phú Nhuận.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa. Bị hại: Ông Đỗ Hiếu B, sinh năm 2003( vắng mặt) Địa chỉ: ấp T, xã M, huyện N, tỉnh Tây Ninh.

Ni có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Nguyễn Thị P.T, sinh năm 1984( vắng mặt) Địa chỉ: 33/8C9 đường P, phường M, quận G, Tp Hồ Chí Minh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài nên Đặng Tuấn C điều khiển xe chạy lòng vòng tìm ai sơ hở thì chiếm đoạt tài sản. Khoảng 17 giờ 05 phút ngày 17/4/2022, C điều khiển xe mô tô hiệu Honda Mio Ultimo, màu đỏ, biển số 51R7 - xxxx lưu thông ngược chiều đường V, Phường N, quận P (hướng về Đường K) thì phát hiện ông Đỗ Hiếu B đang đi bộ trên lề đường (cùng hướng với C), trên tay phải có cầm 01 chiếc điện thoại hiệu Iphone 12 màu xanh dương, 128GB, C liền điều khiển xe chạy lên lề đường bám theo sau ông B đến trước nhà số 82 đường V thì C cho xe áp sát bên phải người ông B rồi dùng tay trái giật lấy chiếc điện thoại và tăng ga bỏ chạy. Khi bị cướp giật, ông B truy hô và đuổi theo. Lúc này, có ông Lê Hoàng L đang điều khiển xe ô tô, biển số 51H - 687.xx lưu thông trên đường V (hướng về đường Đường H) đến trước nhà số 108 đường V thì nhìn thấy ông B và người dân đang truy hô và đuổi theo C nên cho xe va chạm vào C làm C bị té xe ngã xuống đường và rơi chiếc điện thoại C vừa cướp giật được. C bỏ xe chạy bộ đến trước nhà số 150 đườngV, Phường N, quận P thì bị ông L và người dân đuổi theo bắt giữ được C cùng phương tiện đưa về Công an Phường N, quận P tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan điều tra, Đặng Tuấn C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra thu thập được (các bút lục từ 25-30; từ 179-188).

Căn cứ Kết luận định giá tài sản ngày 09/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12, 128GB, màu xanh dương, giá trị 13.000.000đ (Mười ba triệu đồng).

Tại bản cáo trạng số 34/CT-VKS ngày 30/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận đã truy tố bị cáo Đặng Tuấn C về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, sau khi nêu lên những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo và nhân thân của bị cáo; đề nghị áp dụng điểm d,i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Đặng Tuấn C mức án từ 04(bốn) năm 06(sáu)tháng - 05(năm) năm tù; xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo đều thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an quận Phú Nhuận, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các văn bản tố tụng có trong hồ sơ vụ án như bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung, kết luận định giá…đều được tiến hành theo đúng quy định; tại các bản khai, biên bản hỏi cung và các tài liệu khác bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng có trong hồ sơ vụ án của Cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án:

Vào lúc 17 giờ 05 phút ngày 17/04/2022, bị cáo Đặng Tuấn C điều khiển xe mô tô hiệu Honda Mio Ultimo, biển số 51R7-xxxx lưu thông ngược chiều đường V, Phường N, quận P thì phát hiện ông Đỗ Hiếu B đang đi bộ trên lề đường (cùng hướng với C), trên tay phải có cầm 01 chiếc điện thoại hiệu Iphone 12 màu xanh dương, 128GB, bị cáo C liền điều khiển xe chạy lên lề đường bám theo sau bị hại đến trước nhà số 82 đường V thì C cho xe áp sát bên phải người bị hại rồi dùng tay trái giật lấy chiếc điện thoại và tăng ga bỏ chạy nhưng bị người dân truy hô và đuổi theo nên bị té ngã, lập biên bản phạm tội quả tang.

[3]. Về tội danh:

Tại Cơ quan điều tra, cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình, qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng, bản kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là phù hợp, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Đặng Tuấn C thực hiện hành vi dùng thủ đoạn nguy hiểm là sử dụng xe môtô có phân khối lớn, lợi dụng sự sơ hở của người khác mà nhanh chóng công khai chiếm đoạt tài sản trị giá 13.000.000 đồng của bị hại ngay trên đường phố; đồng thời bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 19/12/2011, Tòa án nhân dân Quận G xử 01 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và 04 năm tù về tội “Giao cấu với trẻ em”, tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 05 năm tù tại Bản án số 265/HSST ngày 19/12/2011, bị cáo đã bị kết án về các tội phạm rất nghiêm trọng, ít nghiêm trọng do cố ý, nên lần thực hiện hành vi này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017). Do vậy bị cáo bị truy tố và xét xử về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông đường bộ. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh với mức hình phạt tương xứng với tiền án, tiền sự, nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo; do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[5]. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

Tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại, người bị hại vắng mặt tại phiên tòa và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về xử lý vật chứng:

01 chiếc xe mô tô hiệu Honda Mio Ultimo, màu đỏ, biển số 51R7-xxxx, là phương tiện phạm tội thu giữ của bị cáo, do bà Nguyễn Thị P.T đứng tên chủ sở hữu, năm 2011 bà T bán lại xe cho một thanh niên không rõ họ tên, địa chỉ nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Còn Đặng Tuấn C khai xe do bạn tên X (không rõ nhân thân, lai lịch) cho C để làm phương tiện sử dụng. Qua xác minh chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp trong khi chiếc xe trên là phương tiện phạm tội. Cơ quan điều tra đã có văn bản đề nghị đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có kết quả. Do đó, tiếp tục giao chiếc xe trên cho Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu trong thời gian nhất định, nếu không có chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp liên hệ nhận thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[6]. Về án phí: Bị cáo Đặng Tuấn C phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Đặng Tuấn C phạm tội “Cướp giật tài sản”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ điểm d, i Khoản 2 Điều 171; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Đặng Tuấn C 04( bốn) năm 06(sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/4/2022.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Giao cho Chi cục thi hành án dân sự quận Phú Nhuận 01 xe mô tô hiệu Honda Mio Ultimo, biển số 51R7-xxxx, số khung: RLCM4P8307Y016989, số máy: 4P83016989 để đăng báo tìm chủ sở hữu trong thời gian 06 (sáu) tháng, nếu không có chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp liên hệ nhận thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/7/2022 giữa Công an quận Phú Nhuận và Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm ngàn) đồng 4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án. Người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 42/2022/HS-ST

Số hiệu:42/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Phú Nhuận - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về