TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 416/2021/HS-ST NGÀY 04/11/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 04 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 248/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 497/2021/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 10 năm 2021, đối với bị cáo:
Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá (học vấn): 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị Thùy Tr (chết); Chưa có vợ con; Tiền án: không; Tiền sự: Ngày 23/6/2017, bị Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số: 88/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 21 tháng. Ngày 30/11/2020, bị Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số: 130/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 18 tháng; Nhân thân: Ngày 13/11/2014, bị Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định số: 04/QĐ-TA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 21 tháng. Bị cáo bị giam giữ từ ngày 25/11/2020 và xin vắng mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Chị Ngô Thị H, sinh năm 2001 (xin vắng mặt) Địa chỉ: thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Chị Nguyễn Thị Mỹ L, sinh năm 1977 (vắng mặt) Địa chỉ: thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh
- Người làm chứng:
Anh Nguyễn Tấn Vương Tôn Long B, sinh năm 1996 (vắng mặt) Địa chỉ: Thành phố Hồ Chí Minh
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 24/11/2020, chị Ngô Thị H vừa điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vision, biển số 67N1 – X lưu thông trên đường Bưng Ông Thoàn, vừa nghe điện thoại, sau khi nghe xong chị H bỏ điện thoại Iphone 7 Plus, màu hồng vào hộc để đồ phía trước bên trái của xe mô tô. Khi đến trước nhà số đường Bưng Ông Thoàn, Khu phố 2, phường Phú Hữu, Quận 9 (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh, lúc này Nguyễn Văn Đ điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave Alpha, màu xanh đen bạc, biển số 59B1-X đi phía sau quan sát thấy hộc trước bên trái của xe mô tô mà chị H đang điều khiển có đèn phát sáng, biết trong hộc xe có điện thoại nên Đ nảy sinh ý định chiếm đoạt. Đ điều khiển xe mô tô vượt lên bên trái của xe mô tô chị H đang điều khiển, dùng tay phải nhanh chóng giật điện thoại rồi tăng ga bỏ chạy. Thấy vậy, chị H tri hô “cướp cướp” rồi tăng ga đuổi theo, khi đuổi đến giao lộ giữa đường số và đường Bưng Ông Thoàn thì xe mô tô của chị H va chạm với xe mô tô của Đ, làm hai người ngã ra đường, cùng lúc này có anh Nguyễn Tấn Vương Tôn Long B đến hỗ trợ giữ Đ. Sau đó, Đ gọi điện cho Nguyễn Thị Mỹ L (là vợ chưa đăng ký kết hôn) đến để giải quyết thì giữa L và chị H, anh B xảy ra mâu thuẫn. Trong lúc hai bên đang cãi vã, thì Đ đi đến một quán hàng rong lấy một cây kéo bằng sắt đến dọa anh B đòi lấy xe đi, nhưng anh B không đồng ý và nói đợi Công an phường đến giải quyết, nên Đ dùng kéo tấn công anh B làm anh B bị thương tích nhẹ ở tay trái và xước ở ngực trái, rồi Đ lấy xe mô tô biển số 59B1-X của mình chở L bỏ đi. Qua truy xét, ngày 25/11/2020, Công an phường Phú Hữu tiến hành mời Nguyễn Văn Đ đến trụ sở làm việc.
Căn cứ Kết luận định giá tài sản số: 183-2020/KL-HĐĐGTS ngày 02/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 9, thì: 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus, loại 128Gb, màu hồng có giá trị còn lại là 4.600.000 đồng.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 (nay là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức), Nguyễn Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.
Vật chứng vụ án:
01 điện thoại di động Iphone 7 Plus, loại 128Gb, màu hồng của chị Ngô Thị H mà Nguyễn Văn Đ đã chiếm đoạt. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại tài sản cho chị H.
01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave Alpha, màu xanh đen bạc, biển số 59B1-X, số khung RLHJA391XLY066009, số máy JA39E1402235 do Nguyễn Văn Đ đứng tên chủ sở hữu là phương tiện Đ sử dụng vào việc phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 (nay là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức) đã thu giữ vật chứng trên theo Lệnh nhập kho vật chứng số: 136/20 ngày 28/11/2020.
Về dân sự:
Chị Ngô Thị H khi điều khiển xe đuổi Nguyễn Văn Đ thì xảy ra va chạm và bị ngã nhưng không gây thương tích gì, tuy nhiên xe bị hư hỏng và sửa chữa hết số tiền 3.600.000 đồng (có hóa đơn chứng từ kèm theo), nên chị H yêu cầu Đ bồi thường số tiền 3.600.000 đồng.
Anh Nguyễn Tấn Vương Tôn Long B bị Đ dùng kéo tấn công gây thương tích, nay vết thương nhẹ đã lành nên anh B không yêu cầu bồi thường và không thắc mắc hay khiếu nại gì về sau.
Cáo trạng số: 110/CTr-VKSTPTĐ ngày 07 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Nguyễn Văn Đ về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa, đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Văn Đ về tội “Cướp giật tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d, đ khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 04 năm tù đến 04 năm 06 tháng tù.
Đề nghị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave Alpha, màu xanh đen bạc, biển số 59B1-X, số khung RLHJA391XLY066009, số máy JA39E1402235.
Buộc bị cáo phải bồi thường cho chị Ngô Thị H 3.600.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 9 (nay là Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức), Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo là khách quan, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, kết luận định giá tài sản và các chứng cứ, tang vật khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 24/11/2020, tại trước nhà số đường Bưng Ông Thoàn, Khu phố 2, phường Phú Hữu, Quận 9 (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Văn Đ đã dùng xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave Alpha, màu xanh đen bạc, biển số 59B1-X vượt lên bên trái của xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Vision, biển số 67N1 – X của chị Ngô Thị H đang điều khiển, rồi dùng tay phải nhanh chóng giật điện thoại di động Iphone 7 Plus, loại 128Gb, màu hồng của chị H có giá trị còn lại là 4.600.000 đồng và tăng ga tẩu thoát. Bị cáo đã thực hiện hành vi nhanh chóng, bất ngờ tiếp cận chiếm đoạt tài sản của bị hại rồi nhanh chóng tẩu thoát. Vì vậy, hành vi của Nguyễn Văn Đ đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do bị cáo sử dụng xe mô tô làm phương tiện cướp giật tài sản của bị hại có thể gây nguy hiểm đến tính mạng sức khỏe của bị hại cũng như của những người khác đang tham gia giao thông; khi bị người dân giữ lại, bị cáo đã có hành vi dùng kéo chống lại và lấy xe bỏ đi, đây thuộc trường hợp “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” và “hành hung để tẩu thoát” theo điểm d, đ khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi cướp giật chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn có tiền tiêu xài một cách dễ dàng nhưng không muốn bỏ công sức lao động, nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội một cách táo bạo và liều lĩnh, bị cáo đã dùng phương tiện xe mô tô công khai cướp giật chiếm đoạt tài sản của bị hại ngay trên đường giao thông, chứng tỏ ý thức xem thường pháp luật của bị cáo. Bị cáo có 02 tiền sự và nhân thân xấu. Vì vậy, cần áp dụng một hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, trong suốt quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; thiệt hại không lớn. Do đó, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.
[4] Về hành vi của Nguyễn Văn Đ dùng kéo gây thương tích cho anh Nguyễn Tấn Vương Tôn Long B có dấu hiệu của tội “Cố ý gây thương tích”. Tuy nhiên, do vết thương nhẹ đã lành nên anh B đã tự nguyện viết đơn từ chối giám định thương tích, không yêu cầu khởi tố, không yêu cầu bồi thường. Do đó, không đủ cơ sở để xử lý hình sự đối với Đ về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[5] Đối với Nguyễn Thị Mỹ L (là vợ Đ, chưa đăng ký kết hôn), sau khi nghe Đ gọi điện bị người dân giữ lại nên L ra hỗ trợ Đ. Tuy nhiên, việc Đ đi cướp giật L không biết, lúc nhận được điện thoại của Đ thì L cũng không tin là Đ cướp giật điện thoại của người khác nên khi ra hiện trường L đã cãi nhau với chị H và những người xung quanh, khi Công an mời L về làm việc thì L mới biết Đ thực hiện hành vi cướp giật. Do đó, không đủ cơ sở để xử lý hình sự đối với L với vai trò đồng phạm trong vụ án này.
[6] Về xử lý vật chứng: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave Alpha, màu xanh đen bạc, biển số 59B1-X, số khung RLHJA391XLY066009, số máy JA39E1402235 do Nguyễn Văn Đ đứng tên chủ sở hữu. Đ sử dụng xe mô tô trên làm phương tiện phạm tội, nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
[7] Về dân sự:
[7.1] Chị Ngô Thị H khi điều khiển xe đuổi Nguyễn Văn Đ thì xảy ra va chạm và bị ngã nhưng không gây thương tích gì, tuy nhiên xe bị hư hỏng và sửa chữa hết số tiền 3.600.000 đồng (có hóa đơn chứng từ kèm theo), nên Chị H yêu cầu Đ bồi thường số tiền 3.600.000 đồng. Bị cáo Đ đồng ý bồi thường toàn bộ số tiền nêu trên, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H.
[7.2] Anh Nguyễn Tấn Vương Tôn Long B bị Đ dùng kéo tấn công gây thương tích, nay vết thương nhẹ đã lành nên anh B không yêu cầu bồi thường. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm d, đ khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/11/2020.
2. Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 584; Điều 585; Điều 589; Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải bồi thường cho chị Ngô Thị H 3.600.000 (ba triệu sáu trăm ngàn) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave Alpha, màu xanh đen bạc, biển số 59B1-X, số khung RLHJA391XLY066009, số máy JA39E1402235 do Nguyễn Văn Đ đứng tên chủ sở hữu (theo Biên bản giao nhận vật chứng số 13C/21 ngày 07/4/2021, bên giao là Công an thành phố Thủ Đức, bên nhận là Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức).
4. Căn cứ vào Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 (ba trăm ngàn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
5. Căn cứ vào Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 416/2021/HS-ST
Số hiệu: | 416/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về