TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 38/2023/HS-ST NGÀY 21/11/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 21 tháng 11 năm 2023, tại Hội trường xét xử II Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 40/2023/TLST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2023/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Phan Văn L; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 15/02/2004; Nơi sinh: Tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn Thành Ph, xã Xuân T, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; CCCD số: 042204003X, cấp ngày: 22/4/2021, nơi cấp: Cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội; con ông Phan Văn Th và bà Dương Thị C; Vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự : Không; bị cáo bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh từ ngày 03/8/2023 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại:
+ Chị Nguyễn Thị H; Sinh năm: 1994; địa chỉ: Thôn An T, xã Xuân Gi, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.
+ Chị Lê Thùy L; Sinh ngày: 04/8/2005; địa chỉ: Tổ dân phố A, thị trấn Xuân A, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Trần Duy L; Sinh năm: 1977; Địa chỉ: Khối Trung M, phường Lê M, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Buôn bán; vắng mặt.
+ Chị Dương Thị Q; Sinh năm: 1989; Địa chỉ: Thôn Thành T, xã Xuân T, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Làm ruộng; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chiều ngày 01/8/2023, khi đang đi chơi tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Phan Văn L, sinh ngày 15/02/2004, trú quán tại thôn Thành Ph, xã Xuân T, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh nảy sinh ý định cướp giật tài sản của người đi đường để lấy tiền phục vụ việc tiêu xài cá nhân. Sau khi nảy sinh ý định, L sử dụng bìa cát tông và băng dính để dán, che biển kiểm soát của chiếc xe máy nhãn hiệu WAVE α màu đen, mang biển kiểm soát 38N1 - X (là xe máy của L) lại để tránh bị phát hiện. Đến tối ngày 01/8/2023, Phan Văn L đã thực hiện 02 vụ cướp giật tài sản tại địa bàn huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 01/8/2023, Phan Văn L điều khiển xe máy nhãn hiệu WAVE α màu đen, mang biển kiểm soát 38N1 - X (đã dán, che biển kiểm soát) đi từ thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An về xã Xuân T, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Trên đường về, L ghé vào các quán ở gần khu vực cầu Bến Thủy 1 thuộc địa phận thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An để mua bánh mì và sữa rồi sau đó tiếp tục điều khiển xe máy đi sang thị trấn Xuân A, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh và đi về hướng thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Khoảng 21 giờ cùng ngày, khi đến đoạn đường Nguyễn Du thuộc thôn An T, xã Xuân Gi, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, L nhìn thấy anh Lê Ngọc H, sinh năm 1992, trú tại thôn An T, xã Xuân Gi, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh đang điều khiển xe máy nhãn hiệu Vision màu xanh, mang biển kiểm soát 38N1 - X chở vợ là chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1994 cùng 02 con nhỏ là các cháu Lê Nguyễn Gia B, sinh năm 2017, Lê Minh Q, sinh năm 2019 đi cùng chiều và thấy chị H có đeo 01 chiếc ba lô nhỏ (bên trong ba lô có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, là điện thoại của chị H) ở vai phải. Lúc này, L nghĩ trong ba lô nhỏ đó có tiền hoặc tài sản nên liền nảy sinh ý định cướp giật chiếc ba lô của chị H. L điều khiển xe lách sang phía bên phải, gần với xe của anh H và chị H rồi dùng tay phải điều khiển xe, giữ tốc độ còn tay trái đưa ra nhanh chóng giật chiếc ba lô của chị H. Do chị H nắm chắc nên L không giật được chiếc ba lô rồi mất thăng bằng và ngã xuống đường. Lo sợ bị bắt giữ nên L liền dựng xe dậy rồi điều khiển xe bỏ chạy về hướng thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 16/KL- HĐĐGTS ngày 15/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản huyện Nghi Xuân kết luận: chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 của chị Nguyễn Thị H trị giá 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng).
Vụ thứ hai: Sau khi thực hiện vụ cướp giật thứ nhất, L điều khiển chiếc xe máy trên bỏ chạy về hướng thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Khi đến gần Ủy ban nhân dân xã Xuân Gi, L nhìn thấy chị Lê Thùy L, sinh năm 2005, trú tại tổ dân phố 2, thị trấn Xuân A, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh đang điều khiển xe máy điện mang biển kiểm soát 38MĐ1 - X chở cháu Lê Thị Thúy H, sinh năm 2007, trú tại tổ dân phố 7, thị trấn Xuân A đi cùng chiều, tại phần hộc xe phía trước, dưới tay lái bên trái có để một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO V2027 (là điện thoại của chị L). L nảy sinh ý định cướp giật chiếc điện thoại trên rồi điều khiển xe máy bám theo phía sau xe của chị L. Khoảng 21 giờ 10 phút cùng ngày, khi đi đến gần Uỷ ban nhân dân huyện Nghi Xuân, quan sát thấy đoạn đường vắng người qua lại thì L điều khiển xe máy từ phía sau vượt lên ngang bên trái xe của chị L, dùng tay giật lấy chiếc điện thoại của chị L rồi phóng xe để tẩu thoát. Sau đó, L đi về đến quảng trường ở khu du lịch biển Xuân T rồi ghé vào quán của bà Trần Thị Th, sinh năm 1963, trú tại thôn Thành Ph, xã Xuân T, huyện Nghi Xuân để uống nước. Một lúc sau, khi bà Th đóng quán để về nghỉ thì L điều khiển xe đến thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An tìm chỗ ngủ. Khoảng 8 giờ ngày 02/8/2023, L tháo, vứt sim thuê bao điện thoại của chị L rồi đưa chiếc điện thoại di động đã cướp giật được đến cửa hàng điện thoại Long T ở số 195, đường Lê D, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An bán cho anh Trần Duy L, sinh năm 1977, trú tại khối Trung M, phường Lê M, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An (chủ cửa hàng Long T) được 200.000 đồng. Số tiền đó, L đã tiêu xài cá nhân hết 80.000 đồng, còn 120.000 đồng L đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Nghi Xuân.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 16/KL- HĐĐGTS ngày 15/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản huyện Nghi Xuân kết luận: chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO của chị Lê Thùy L trị giá 733.000 đồng (bảy trăm ba mươi ba nghìn đồng).
Vật chứng vụ án: Thu giữ từ người liên quan đến vụ án là anh Trần Duy L: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, số kiểu máy V2027, có số Imei1 là 862310057762874 và số Imei 2 là 862310057762866, màn hình cảm ứng bị nứt vỡ ở nhiều vị trí, vỏ phía sau màu xanh, đã qua sử dụng, chất lượng bên trong không mở ra kiểm tra (Chiếc điện thoại mà Phan Văn L cướp giật của chị Lê Thùy L) đã trả cho chủ sở hữu là chị Lê Thùy L.
Thu giữ từ Phan Văn L: 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, loại Wava Alpha, màu đen, biển kiểm soát 38N1-X, số khung RLHJA3921PY723990, số máy JA39E3131285. Tại phần tay nắm, phanh tay, chắn bùn phía trước bên phải của xe có nhiều vết trầu xước không rõ hình, xe đã qua sử dụng, chất lượng bên trong không mở ra kiểm tra và số tiền 120.000đ (Một trăm hai mươi nghìn đồng) hiện đã được chuyển đến kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh để xử lý theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm dân sự: Anh Trần Duy L (là người đã mua chiếc điện thoại của Phan Văn L) đã được gia đình Phan Văn L bồi thường số tiền 200.000đ nên không yêu cầu gì thêm. Các bị hại Nguyễn Thị H và Lê Thùy L đã nhận lại các tài sản bị cướp giật, nay không yêu cầu gì thêm.
Với hành vi trên, Cáo trạng số 40/CT –VKS-NX ngày 31/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân đã truy tố bị cáo Phan Văn L về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa tuy nhiên lời trình bày có trong hồ sơ vụ án như lời trình bày của bị cáo và nội dung bản cáo trạng, không yêu cầu bị cáo bồi thường về mặt dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phan Văn L phạm tội “Cướp giật tài sản”; đề nghị áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Phan Văn L mức án từ 42 đến 48 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 03/8/2023. Ngoài ra còn đề xuất về xử lý vật chứng và án phí.
Bị cáo nói lời sau cùng thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có tranh luận gì với luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của các hành vi và quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nghi Xuân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, với nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và các chứng cứ khác có tại hồ sơ, như vậy đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 01/8/2023, Phan Văn L điều khiển xe máy nhãn hiệu WAVE α màu đen, mang biển kiểm soát 38N1 - X (đã dán, che biển kiểm soát) đi từ thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An về xã Xuân T, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh đã thực hiện 02 vụ cướp giật tài sản gồm: của chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1994, trú tại thôn An T, xã Xuân Gi, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh 01 chiếc ba lô bên trong có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 trị giá 7.000.000 đồng nhưng chưa lấy được tài sản và của chị Lê Thùy L, sinh năm 2005, trú tại tổ dân phố 2, thị trấn Xuân A, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO V2027 trị giá 733.000 đồng. Sau đó Phan Văn L đem chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO V2027 của chị L bán được số tiền 200.000đ, L đã tiêu xài cá nhân hết 80.000đ, còn 120.000đ khi bị bắt đã giao nộp cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nghi Xuân.
Tổng giá trị tài sản Phan Văn L đã cướp giật là 7.733.000đ (Bảy triệu bảy trăm ba mươi ba ngàn đồng).
[3] Hành vi của bị cáo công khai, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác có tổng trị giá 7.733.000 đồng rồi tẩu thoát; bị cáo thực hiện hành vi khi đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, không thuộc tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Vì vậy hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” được quy định tại Điều 171 của Bộ luật hình sự.
Bị cáo dùng xe mô tô cướp giật tài sản của người bị hại và tẩu thoát giữa nơi đông người đang tham gia giao thông thể hiện tính liều lĩnh của bị cáo, với phương thức thủ đoạn thực hiện có thể gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của người bị hại và của những người tham gia giao thông vì vậy bị cáo phải chịu tình tiết định khung tăng nặng “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự. Do đó việc truy tố, xét xử bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, gây hoang mang, lo lắng trong nhân dân nên cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.
[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo 02 lần cướp giật tài sản của người khác đều đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” vì vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo tác động nhờ gia đình bồi thường thiệt hại cho người đã mua điện thoại và nộp lại số tiền thu lợi bất chính từ việc phạm tội; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do đó cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[6] Trên cơ sở xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời gian như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nhằm giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
[7] Trong vụ án, Trần Duy L là người đã mua chiếc điện thoại Phan Văn L đã cướp giật của chị Lê Thùy L. Tuy nhiên quá trình mua bán Trần Duy L không biết chiếc điện thoại này là do phạm tội mà có vì vậy không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần Duy L về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
[8] Về vật chứng: Các vật chứng đã được Cơ quan điều tra trả lại trong quá trình điều tra là đúng quy định nên HĐXX không xem xét.
01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, loại Wava Alpha, màu đen, biển kiểm soát 38N1-X đây là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 38000139 do Công an xã Xuân T cấp ngày 29/6/2023 của xe máy biển kiểm soát 38N1-X do gia đình bị cáo Phan Văn L giao nộp tại phiên tòa là giấy tờ sở hữu của công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên giao lại cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân để phục vụ quá trình xử lý vật chứng.
[9] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì về mặt dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[10] Về biện pháp tư pháp: Tịch thu số tiền thu lợi bất chính 200.000 đồng trong đó 120.000 đồng do bị cáo giao nộp và 80.000 đồng do gia đình bị cáo nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân theo biên lai thu tiền số 0007457 ngày 26/9/2023 để sung công quỹ Nhà nước.
[11] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Phan Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về điều luật áp dụng: Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 6, khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 và mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án, ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
2. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phan Văn L phạm tội “Cướp giật tài sản”.
3. Về hình phạt chính: Xử phạt Phan Văn L 42 (Bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 03/8/2023.
4. Về biện pháp tư pháp: Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền thu lợi bất chính 200.000 đồng trong đó 120.000 đồng do bị cáo giao nộp và 80.000 đồng do gia đình bị cáo nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân theo biên lai thu tiền số 0007457 ngày 26/9/2023.
5. Về vật chứng: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda, loại Wava Alpha, màu đen, biển kiểm soát 38N1-X.
Tình trạng các vật chứng trên có tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01/11/2023 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Nghi Xuân với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân.
Khi bản án có hiệu lực pháp luật giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nghi Xuân 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe gắn máy số 38000139 do Công an xã Xuân T cấp ngày 29/6/2023 để phục vụ quá trình xử lý vật chứng.
6. Về án phí: Bị cáo Phan Văn L phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
7. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện vắng mặt được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 38/2023/HS-ST
Số hiệu: | 38/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về