Bản án về tội cướp giật tài sản số 362/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 362/2022/HS-ST NGÀY 15/08/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 439/2022/HSST ngày 16 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

4122/2022/XXST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn S; Sinh 1971, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi thường trú:

160/21 Cô Giang, phường Cô Giang, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở:

231/51B Lưu Hữu Phước, Phường 15, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 02/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn C (chết) và bà Nguyễn Thị T(chết); Vợ: Sống chung như vợ chồng với Nguyễn Thị Kim T và có 01 con chung sinh năm 2016; Con: Có 02 người con, lớn sinh năm 1998, nhỏ sinh năm 2016; Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Nhân thân:

+ Ngày 11/8/1989, bị Công an Quận 1 bắt đưa đi cưỡng bức lao động 12 tháng.

+ Bản án số 29/HSST ngày 19/02/1992 Tòa án nhân dân Quận 5 xử phạt 12 tháng tù, về tội “Cướp giật tài sản”.

+ Bản án số 227/HSST ngày 16/8/1993 Tòa án nhân dân Quận 1 xử phạt 18 tháng tù, về tội “Cướp giật tài sản”.

+ Ngày 10/03/1995, có hành vi “Cướp giật tài sản” bị Công an Quận 1 bắt, tập trung cải tạo 03 năm.

+ Ngày 18/7/1995, có hành vi “Cướp giật tài sản” bị công an Quận 1 bắt, tập trung cải tạo 03 năm.

+ Bản án số 1040/HSST ngày 05/6/1999 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù, về tội “Cướp giật tài sản”.

+ Bản án số 73/HSST ngày 13/01/2003 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù, về tội “Cướp giật tài sản”.

+ Bản án số 372/HSST ngày 24/12/2008 Tòa án nhân dân Quận 1 xử phạt 05 năm tù, về tội “Cướp giật tài sản”.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày: 18/10/2021. Có mặt.

Bị hại: Bà Helena M; sinh năm: 1978; Quốc tịch: Đức; Số hộ chiếu: C4J6WJ3XM, cấp ngày: 10/4/2019; Tạm trú: An Phu Superior Compound, số 15 đường Mimosa, phường Thảo Điền, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Nguyễn Thị Kim T; sinh năm: 1971; cư trú: 231/51B Lưu Hữu Phước, Phường 15, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

Người phiên dịch:

Ông Nguyễn Duy H, phiên dịch viên Tiếng Anh, thuộc Công ty TNHH Thương Mại và Dịch Thuật khả Quý. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 00 phút ngày 17/10/2021, Nguyễn Văn S điều khiển xe môtô biển số 59E1-351-25 chạy lòng vòng khu vực Quận 1 tìm người sơ hở tài sản để cướp giật. Khi đến giao lộ Hàm Nghi – Phó Đức Chính, Quận 1 thì Sang nhìn thấy chị Helena M (Quốc tịch Đức) đang cùng chồng và 03 người con đi bộ trên đường Trần Hưng Đạo băng qua đường Hàm Nghi, hướng về chợ Bến Thành, Quận 1, trên cổ chị Helena M có đeo 01 sợi dây chuyền màu vàng, Sang liền điều khiển xe chạy ngược chiều vào đường Hàm Nghi, chạy áp sát trước mặt chị Helena M và dùng tay trái giật lấy sợi dây chuyền trên cổ của chị Helena M rồi tẩu thoát về hướng đường Phó Đức Chính, Quận 1. Sau đó, chị Helena M đến Công an phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1 trình báo.

Sau khi giật được sợi dây chuyền, Sang điều khiển xe về đầu hẻm số 231 đường Lưu Hữu Phước, Phường 15, Quận 8 (nơi Nguyễn Thị Kim Thoa, là người sống chung như vợ chồng với Sang đang bán trái cây). Sang nói với Thoa vừa lượm được 01 sợi dây chuyền nên cho Thoa đeo làm trang sức.

Theo kết luận định giá tài sản số 376/KL-HĐĐGTS ngày 20/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 1, kết luận: 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng trị giá 9.500.000 đồng.

Qua truy xét, ngày 18/10/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Văn S và thu giữ sợi dây chuyền do Nguyễn Thị Kim Thoa giao nộp. Tiến hành khám xét chỗ ở của Nguyễn Văn S tại địa chỉ số 231/51B đường Lưu Hữu Phước, Phường 15, Quận 8, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 thu giữ chiếc áo khoác dài tay mà Sang mặc khi thực hiện hành vi phạm tội. Kết quả thực nghiệm điều tra phù hợp lời khai của Nguyễn Văn S và camera ghi hình. Sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 chuyển vụ án đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Vật chứng vụ án:

- 01 sợi dây chuyển bằng kim loại vàng, qua giám định trị giá 9.500.000 đồng đã được thu hồi trả bị hại là chị Helena M.

- 01 chiếc xe môtô biển số 59E1-351-25, qua xác minh chiếc xe trên do anh Moussa Aly đứng tên chủ sở hữu. Năm 2020, anh Moussa A bán lại cho Cửa hàng mua bán xe máy Vũ Phụng Hoàng (địa chỉ tại 322 Phạm Thế Hiển, Phường 3, Quận 8). Nguyễn Thị Kim T khai mua xe trên tại Cửa hàng mua bán xe máy Vũ Phụng Hoàng để sử dụng (có giấy mua bán xe), Thoa không biết việc Sang sử dụng xe máy trên để đi cướp giật tài sản.

Ngoài ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh còn thu giữ của Nguyễn Văn S: 01 nón bảo hiểm, 01 đôi dép màu đen, 01 điện thoại di động Nokia, 01 quần Jean màu đen, 01 áo khoác dài tay.

Tất cả các vật chứng trên, hiện đang tạm giữ theo Biên bản giao nhận tang tài vật số Nk2022/528 ngày 09/8/2022 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

Về dân sự:

Bị hại là chị Helena M đã nhận lại dây chuyền. Tuy nhiên, bị hại còn khai ngoài sợi dây chuyền còn có mặt dây chuyền không thu hồi được, bị hại yêu cầu Nguyễn Văn S bồi thường lại mặt dây chuyền đã bị mất (hiện bị cáo chưa bồi thường).

Tại bản Cáo trạng số 265/CT-VKS-P2 ngày 26 tháng 5 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

- Sau khi kết thúc phần thủ tục xét hỏi, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S từ 05 đến 06 năm tù. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất các biện pháp giải quyết trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng.

- Bị cáo Nguyễn Văn S đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án được tóm tắt như nêu trên, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các Quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó, đã có đủ cơ sở để xác định:

Vào khoảng 13 giờ 00 phút ngày 17/10/2021, tại giao lộ Hàm Nghi – Phó Đức Chính, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn S đã có hành vi điều khiển xe môtô biển số 59E1-351.25 áp sát tiếp cận bất ngờ giật lấy sợi dây chuyền trị giá 9.500.000 đồng của chị Helena M (Quốc tịch Đức) rồi nhanh chóng tẩu thoát, đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”, thuộc trường hợp “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của khách du lịch, gây mất an ninh trật tự ở địa phương, ngoài ra còn làm ảnh hưởng xấu đến môi trường du lịch và hình ảnh con người Việt Nam trong mắt du khách nước ngoài. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi cướp giật chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã cố ý phạm tội, chứng tỏ ý thức xem thường pháp luật của bị cáo. Xét nhân thân bị cáo là xấu, đã nhiều lần bị kết án cũng về tội “Cướp giật tài sản”, mặc dù đã được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm khắc, tương xứng, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết: bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại, để áp dụng giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án là 01 sợi dây chuyển bằng kim loại màu vàng, theo kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự trị 9.500.000 đồng, đã được Cơ quan điều tra thu hồi trả lại bị hại là chị Helena M.

Bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường lại mặt dây chuyền đã bị mất. Bị cáo không thừa nhận việc chiếm đoạt mặt dây chuyền của bị hại; ngoài lời khai của bị hại thì không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh bị cáo đã chiếm đoạt mặt dây chuyền của bị hại, cũng như bị hại bị thiệt hại là mặt dây chuyền từ hành vi phạm tội của bị cáo, do đó yêu cầu của bị hại là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Thu giữ đồ vật của bị cáo, gồm: 01 nón bảo hiểm, 01 đôi dép màu đen, 01 quần Jean màu đen, 01 áo khoác dài tay, Hội đồng xét xử xét thấy đây là tài sản không có giá trị và bị cáo không nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia thu của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy là tài sản cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- Phương tiện phạm tội là 01 xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu Suzuki, số loại: không xác định; dung tích xilanh 124; biển số 59E1-351.25, SK …..LC090100853 (số mờ, rỉ sét, không đọc được), SM: F4D2-100853 (không gương, dàn nhựa bể, yên bung, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra) qua xác minh chiếc xe trên do bà Nguyễn Thị Kim Thoa là người quản lý hợp pháp, bà Thoa không biết việc Sang sử dụng xe máy trên để đi cướp giật tài sản nên trả lại chiếc xe trên cho bà Nguyễn Thị Kim T.

[6] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 05 (năm) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 18/10/2021.

[2] Về trách nhiệm dân sự: Không chấp nhận yêu cầu của bị hại - bà Helena M đòi bị cáo bồi thường trị giá mặt dây chuyền.

[3] Xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106, Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 nón bảo hiểm, 01 đôi dép màu đen, 01 quần Jean màu đen, 01 áo khoác dài tay.

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia.

- Trả lại cho bà Nguyễn Thị Kim T 01 xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu Suzuki, số loại: không xác định; dung tích xilanh 124; biển số 59E1-351.25, SK ...LC090100853 (số mờ, rỉ sét, không đọc được), SM: F4D2-100853 (không gương, dàn nhựa bể, yên bung, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra) (Theo biên bản giao nhận tang tài vật số Nk2022/528 ngày 09/8/2022 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh) [4] Căn cứ Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Buộc bị cáo Nguyễn Văn S nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

[5] Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 362/2022/HS-ST

Số hiệu:362/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về