Bản án về tội cướp giật tài sản số 341/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 341/2019/HS-ST NGÀY 13/09/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 09 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 445/2019/HSST ngày 15/8/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3882/2019/QĐXXST-HS ngày 28/8/2019 đối với bị cáo:

Trần Thị Trúc L; giới tính: Nữ; sinh ngày 17/10/1991 tại Thành phố H; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nơi thường trú: Số 37/15 TQT, Phường I, Quận E, Thành phố H; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 08/12; con ông Trần Văn Anh Q (chết) và bà Võ Thị B, chưa có chồng, có 03 con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2016.

Tiền án: Ngày 13/11/2018, bị Tòa án nhân dân quận B, Thành phố H xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự (Bản án số 170/2018/HSST ngày 13/11/2018). Bị cáoTrần Thị Trúc L đang được hoãn thi hành án do nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi.

Nhân thân: Ngày 03/7/2013, bị Tòa án nhân dân Quận E xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số 112/2013/HS-ST ngày 03/7/2013). Bị cáo Trần Thị Trúc L chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/02/2015.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 19/3/2019, tại Trại tạm giam Chí Hòa Công an Thành phố H (có mặt).

Bị hại: Bà VMEF, sinh năm: 1983, quốc tịch: Philippine.

Địa chỉ lưu trú: Khách sạn NM, số 283/11-13 PNL, phường PNL, Quận A, Thành phố H (vắng mặt).

- Người làm chứng: Ông Phạm Mạnh C, sinh năm 1985.

Địa chỉ: 12/15 PĐL, Phường U, quận BT, Thành phố H (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 40 phút ngày 18/3/2019, đối tượng tên B (hay gọi là Tý chưa rõ lai lịch) đến nhà rủ Trần Thị Trúc L đi cướp giật tài sản để có tiền chia nhau tiêu xài, L đồng ý. Sau đó, B chở L bằng xe môtô hiệu Honda Vision (không rõ biển số) đi tìm người sơ hở tài sản để cướp giật. Khi đang lưu thông trên đường TQK, phường TĐ, Quận A, hướng từ đường HBT về đường ĐBP, B phát hiện bà VMEF (sinh năm 1983, quốc tịch Philippine, tạm trú: khách sạn NM, số 283/11-13 PNL, phường PNL, Quận A) đang đứng đối diện bên kia đường tại trước số 114A TQK, trên tay đang cầm điện thoại di động hiệu Iphone XS, B nói với L giật điện thoại của chị VMEF thì cả hai thống nhất. Lúc này, B điều khiển xe môtô chở L quay đầu xe lại theo hướng từ TQK về đường HBT, B cho xe chạy áp sát phía trước mặt bà VMEF để L ngồi sau dùng tay phải giật điện thoại di động hiệu Iphone XS của bà VMEF đang cầm trên tay, sau đó cả hai tẩu thoát về hướng ngã năm TQK, Quận A. Bà VMEF tri hô và đuổi theo nhưng không kịp.

Lúc này, ông Phạm Mạnh C (sinh năm 1985, nơi cư trú: 12/15 Phan Đăng Lưu, Phường 7, quận B) là người chứng kiến sự việc B và L cướp giật, có nghe tiếng bà VMEF tri hô, ông C liền điều khiển xe máy truy đuổi theo B và L. Khi truy đuổi đến trước nhà số 132 TQK, phường TĐ, Quận A thì ông C ép xe làm cho L, B và cả ông C cùng té ngã, L làm rơi 01 túi xách màu xanh có một sọc màu trắng, bên trong túi có 01 túi đeo màu trắng, quai đeo màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Sony Experia màu trắng, 04 ảnh thẻ nữ, 01 bộ đồ ngủ ngắn màu hồng rồi bỏ chạy bộ về hướng TQK - Trần Khắc Chân, còn B cũng nhanh chóng dựng xe và tẩu thoát. Sau đó, anh C cùng bà VMEF đế n Công an phường TĐ, Quận A trình báo sự việc và 140 nộp đồ vật mà L làm rơi lại.

Qua truy xét, Công an phường TĐ, Quận A phối hợp với Công an Phường I, Quận E mời Trần Thị Trúc L về trụ sở làm việc. Qua đấu tranh, L khai nhận L là người trực tiếp thực hiện hành vi cướp giật điện thoại. Chiếc điện thoại Iphone XS cướp giật được của bà VMEF, L đã giao cho B cất giữ ngay sau khi cướp được, L chỉ giữ lại ốp lưng bằng nhựa trong của chiếc điện thoại này và 01 card visit của khách sạn NM, địa chỉ 283/11-13 PNL, Quận A, Thành phố H (bà VMEF đã nhận dạng ra chiếc ốp lưng điện thoại là của bà). Ngoài ra, L khai trong lúc tẩu thoát thì L có làm rơi 01 túi xách màu xanh có một sọc màu trắng bên trong có 01 túi đeo màu trắng, quai đeo màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu đen, 01 điện thoại di động hiệu Sony Experia màu trắng, 04 ảnh thẻ nữ, 01 bộ đồ ngủ ngắn màu hồng chính là chiếc túi xách mà ông C giao nộp.

Đến ngày 19/3/2019, Trần Thị Trúc L bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H đã ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Tại thời điểm bắt giữ, Cơ quan điều tra thu giữ thêm 01 quần dài màu đỏ, 01 áo dài tay màu đỏ trên túi áo có in nhãn hiệu Yvessaintlauren, 01 ốp lưng điện thoại bằng nhựa trong phía sau có gắn cục tròn bằng nhựa màu đen, 01 card vist của khách sạn NM.

Đối với đối tượng B (chưa rõ lai lịch), Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H, Trần Thị Trúc L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Do chiếc điện thoại di động Iphone XS là tài sản của bà Valerie bị chiếm đoạt không thu giữ được (bị đối tượng B chiếm đoạt), chiếc điện thoại này bà Valerie khai mua ở nước ngoài, không có cung cấp được giấy tờ, hình ảnh, kiểu dáng và chủng loại máy, Cơ quan điều tra đã yêu cầu định giá nhưng hội đồng định giá không có cơ sở để định giá chiếc điện thoại di động nói trên.

Tại bản Cáo trạng số 315/CT-VKS-P2 ngày 09/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H đã truy tố bị cáo Trần Thị Trúc L về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thị Trúc L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Thị Trúc L về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; về tình tiết giảm nhẹ: Áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Thị Trúc L từ 05 năm đến 06 năm tù giam, tổng hợp hình phạt 03 năm 06 tháng tù của Tòa án nhân dân quận B, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án. Tách phần trách nhiệm bồi thường dân sự thành một vụ kiện dân sự nếu bị hại có yêu cầu. Về vật chứng vụ án: Trả lại cho bị cáo L 01 điện thoại di động hiệu Mobel màu đen viền xanh, 01 điện thoại di động Sony Xperia màu trắng; tịch thu tiêu hủy: 03 tấm hình 2x3cm, 01 tấm hình 3x4cm, 01 túi đeo màu trắng có quai đeo màu đen, 01 bộ đồ ngủ ngắn màu hồng, 01 túi xách tay màu xanh viền trắng, 01 quần dài màu đỏ, 01 áo dài tay màu đỏ trên túi áo có in nhãn hiệu Yvessaintlauren, 01 ốp lưng điện thoại bằng nhựa trong phía sau có gắn cục tròn bằng nhựa màu đen, 01 card vist của khách sạn NM, địa chỉ: số 283/11-13 PNL, phường PNL, Quận A, Thành phố H.

Bị cáo Trần Thị Trúc L không tranh luận, không nói lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Trần Thị Trúc L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do bị cáo gây ra như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H đã truy tố.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị can, biên bản xác minh, vật chứng thu giữ … nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 12 giờ 40 phút ngày 18/3/2019, tại số 114A TQK, phường TĐ, Quận A, đối tượng B (chưa rõ lai lịch) điều khiển xe môtô hiệu Honda Vision (không rõ biển số) chở Trần Thị Trúc L ngồi sau, áp sát bà Valeria Marie E.Francisco đang đứng trên lề đường để L dùng tay phải giật 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone XS, rồi tăng ga tẩu thoát. Qua truy xét, Cơ quan điều tra bắt giữ được L và thu giữ được ốp lưng chiếc điện thoại.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo L rất liều lĩnh, bị cáo đã dùng xe mô tô là phương tiện nguy hiểm, lợi dụng sự sơ hở của bị hại cướp giật tài sản là chiếc điện thoại di động hiệu Iphone Xs Max. Bị cáo L đã có tiền án về tội “Cướp giật tài sản”, bị xử phạt 03 năm 06 tháng tù, đang được hoãn chấp hành hình phạt tù mà còn tiếp tục phạm tội. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H đã truy tố để xét xử bị cáo về tội danh “Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ phạm tội do bị cáo gây ra là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý hoang mang lo sợ, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội và ảnh hưởng đến sự phát triển văn hóa du lịch, làm giảm niềm tin của người nước ngoài đối với Việt Nam nên cần phải xử phạt bị cáo với mức án tương xứng thì mới có tác dụng giáo dục riêng, răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[6] Đối với đối tượng B (chưa rõ lai lịch), Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Chiếc điện thoại di động hiệu Iphone XS nói trên không thu giữ được (bị đối tượng B chiếm đoạt), chiếc điện thoại này bà Valerie khai mua ở nước ngoài, không cung cấp được giấy tờ, hình ảnh, kiểu dáng và chủng loại máy, Cơ quan điều tra đã yêu cầu định giá nhưng hội đồng định giá không có cơ sở để định giá chiếc điện thoại di động nói trên.

Do bà Valeria đã xuất cảnh về nước, chưa có thông tin nhập cảnh lại Việt Nam nên chưa có yêu cầu bồi thường dân sự. Xét thấy tại phiên tòa hôm nay, bà Valeria vắng mặt nên Hội đồng xét xử không thể xem xét, giải quyết yêu cầu bồi thường trách nhiệm dân sự. Bà Valeria có quyền khởi kiện để yêu cầu bị cáo Trần Thị Trúc L bồi thường thiệt hại trong vụ kiện dân sự nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.

[8] Về tang vật vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Mobel màu đen viền xanh, 01 điện thoại di động Sony Xperia màu trắng là của bị cáo L, không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo L;

- 03 tấm hình 2x3cm, 01 tấm hình 3x4cm, 01 túi đeo màu trắng có quai đeo màu đen, 01 bộ đồ ngủ ngắn màu hồng, 01 túi xách tay màu xanh viền trắng, 01 quần dài màu đỏ, 01 áo dài tay màu đỏ trên túi áo có in nhãn hiệu Yvessaintlauren, 01 ốp lưng điện thoại bằng nhựa trong phía sau có gắn cục tròn bằng nhựa màu đen, 01 card vist của khách sạn NM, địa chỉ: số 283/11-13 PNL, phường PNL, Quận A, Thành phố H, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào điểm d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Trần Thị Trúc L phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Trúc L 05 (năm) năm tù. Áp dụng khoản 2 Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tổng hợp hình phạt của bản án này và hình phạt 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù của Bản án số 170/2018/HSST ngày 13/11/2018 của Tòa án nhân dân quận B buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/3/2019.

Bà Valeria có quyền khởi kiện để yêu cầu bị cáo Trần Thị Trúc L bồi thường thiệt hại trong vụ kiện dân sự nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.

Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Trả lại cho bị cáo L 01 điện thoại di động hiệu Mobel màu đen viền xanh, 01 điện thoại di động Sony Xperia màu trắng;

- Tịch thu tiêu hủy: 03 tấm hình 2x3cm, 01 tấm hình 3x4cm, 01 túi đeo màu trắng có quai đeo màu đen, 01 bộ đồ ngủ ngắn màu hồng, 01 túi xách tay màu xanh viền trắng, 01 quần dài màu đỏ, 01 áo dài tay màu đỏ trên túi áo có in nhãn hiệu Yvessaintlauren, 01 ốp lưng điện thoại bằng nhựa trong phía sau có gắn cục tròn bằng nhựa màu đen, 01 card vist của khách sạn NM, địa chỉ: số 283/11-13 PNL, phường PNL, Quận A, Thành phố H.

(Biên bản giao nhận tang tài vật số 401/19 ngày 13/8/2019 của Cục thi hành án dân sự Thành phố H).

Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 341/2019/HS-ST

Số hiệu:341/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về