Bản án về tội cướp giật tài sản số 277/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 277/2022/HSST NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Thuận An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 280/2022/TLST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 286/2022/QĐXXST- HS ngày 12/9/2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Thị Ngọc P, sinh năm 1982, tại Bình Dương; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Lê Hồng Phong, khu phố 3, phường P, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn) 05/12; Dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Văn V (chết) và bà Nguyễn Thị H; bị cáo chồng tên Nguyễn Văn Ph và 03 con (lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ sinh ngày 19/7/2019); Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Bà Huỳnh Ngọc Y, sinh năm 1982. Địa chỉ: Thủ Khoa Huân, phường A, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. (có đơn xin vắng mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Huỳnh Ngọc H, sinh năm 1973; địa chỉ: đường Võ Tánh, khu phố Th, phường A, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. (có đơn xin vắng mặt).

Người làm chứng: Ông Hà Tuấn D; bà Nguyễn Thị Thanh T. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 11/4/2022, Võ Thị Ngọc P đón xe ôm đi từ nhà tại khu phố 3, phường P, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đến tiệm vàng Minh Ngọc tại địa chỉ số 15 đường V, khu phố Th, phường A, Thuận An, tỉnh Bình Dương để thực hiện hành vi Cướp giật tài sản (trước đó khoảng 1 tuần P đã đến tiệm vàng Minh Ngọc để quan sát giờ mở cửa, lượng người trong tiệm vàng). Khi đến tiệm vàng Minh Ngọc, P đi bộ vào bên trong thì thấy bà Huỳnh Ngọc Y tại quầy nên hỏi mua vòng đeo tay Simen. P yêu cầu bà Y lấy cho xem 02 (hai) bộ vòng Simen (loại vàng 18k, 14 chiếc vòng/bộ), sau khi P cầm 02 bộ vòng Simen trên tay, lợi dụng khi bà Y nói chuyện với nhân viên không chú ý quan sát thì P cầm 02 bộ vòng vàng bỏ chạy ra đường Võ Tánh tẩu thoát. Lúc này, bà Y tri hô rồi cùng với Hà Tuấn D đuổi theo P được khoảng 30m thì D cùng người dân bắt giữ P cùng tang vật trình báo đến Công an phường A.

Vật chứng thu giữ: 01 bộ vòng tay bằng kim loại màu vàng 18K, trọng lượng 1,156 lượng; 01 bộ vòng tay bằng kim loại màu vàng 18K, trọng lượng 8,53 chỉ. Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Thuận An ngày 14/4/2022 kết luận: 01 bộ vòng tay vàng 18K trọng lượng 1,156 lượng có giá 39.882.000 đồng; 01 bộ vòng tay vàng 18K trọng lượng 8,53 chỉ có giá 29.428.500 đồng (tổng cộng 69.310.500 đồng).

Cáo trạng số 267/CT-VKS-TA ngày 09-9-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố Võ Thị Ngọc P về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

* Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù. Về trách nhiệm dân sự, biện pháp tư pháp: không.

- Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo biết lỗi, ăn năn hối cải về hành vi của mình và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để còn lo cho mẹ già, con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có yêu cầu xét xử vắng mặt và không có ý kiến, yêu cầu gì về bồi thường thiệt hại; người làm chứng vắng mặt. Xét thấy đây là yêu cầu tự nguyện của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng có lời khai đầy đủ trong quá trình điều tra, việc vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử, phù hợp với Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, lời khai của bị hại, người làm chứng cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận: Do thiếu nợ, cần tiền tiêu xài nên bị cáo nảy sinh ý định cướp giật tài sản. Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 11/4/2022 bị cáo kêu xe mô tô grab từ ngã 4 Phú Văn thuộc phường P, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đến chợ Búng thuộc phường A, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương để tìm cơ hội thực hiện ý định, khoảng 07 giờ 05 phút tại tiệm vàng Minh Ngọc địa chỉ đường Võ Tánh, khu phố T, phường A, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, Võ Thị Ngọc P yêu cầu người bán vàng cho xem 02 bộ vàng Simen đeo tay, lợi dụng lúc người bán không để ý bị cáo P đã nhanh chóng cầm theo 02 bộ vòng và chạy ra khỏi tiệm thì bị bảo vệ tiệm vàng và người dân bắt giữ. Bị cáo P thực hiện hành vi cướp giật tài sản là 01 bộ vòng tay vàng 18K trọng lượng 1,156 lượng trị giá 39.882.000 đồng; 01 bộ vòng tay vàng 18K trọng lượng 8,53 chỉ có giá 29.428.500 đồng, tổng giá trị 02 bộ là 69.310.500đ (sáu mươi chín triệu ba trăm mười nghìn năm trăm đồng). Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, làm mất an ninh trật tự tại nơi bị cáo gây án. Bị cáo có khả năng lao động lẽ ra bị cáo phải tìm cho mình một nghề nghiệp ổn định, tích cực lao động để tạo ra của cải vật chất nuôi sống bản thân, chăm lo cho gia đình, nhưng vì muốn có tiền nhanh chóng mà bị cáo đã dấn thân vào con đường phạm tội. Do đó, đối với hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện và cách ly bị cáo một thời gian để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

Về lỗi: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. [5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Tài sản bị cáo cướp giật đã được thu hồi giao trả cho bị hại, bị hại có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác.

[8] Về án phí: Bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm c Khoản 2 Điều 171; điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Điều 136, 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30–12–2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Võ Thị Ngọc P phạm tội “Cướp giật tài sản” 2. Về mức hình phạt: Xử phạt bị cáo Võ Thị Ngọc P 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không.

4. Về biện pháp tư pháp: Không.

5. Về án phí: Bị cáo Võ Thị Ngọc P phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 277/2022/HSST

Số hiệu:277/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về