Bản án về tội cướp giật tài sản số 271/2018/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 271/2018/HS-ST NGÀY 29/10/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 29/10/2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận N, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 259/2018/HSST ngày 01/10/2018, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 340/2018/QĐĐXXST-HS ngày 15 thỏng 10 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Trần Văn Đ, sinh ngày 29/2/1996. Hộ khẩu thường trú và nơi ở: Khu 4, xóm C, huyện C, tỉnh P. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn Đ, sinh năm 1971 và bà Trần Thị Thanh T, sinh năm 1973. Có vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 1995, có 01 con sinh năm 2015. Danh chỉ bản số 000000483 lập ngày 20/6/2018 tại Công an quận N thành phố H và lý lịch cá nhân bị cáo Đ có 01 tiền án: Bản án số 168/2013/HSST ngày 12/7/2013, Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố H xử phạt 15 tháng tù về tội Cướp giật tài sản đó được xóa án tích. Bị cáo bị bắt khẩn cấp, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/6/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H, có mặt.

2. Võ Thành V, sinh ngày 9/10/1991. Hộ khẩu thường trú: Số 161, tổ 33 phường N, quận Đ, H; Nơi ở số 31A ngõ 83 Đ, phường N, B, H. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Tú Q, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1959. Có vợ là Đàm Thị H, sinh năm 1992, có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2015. Danh chỉ bản số 000000469 lập ngày 20/8/2018 tại Công an quận N thành phố H và lý lịch cá nhân bị cáo V chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 17/6/2018, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/6/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H, có mặt.

Người bị hại: Anh Hà Minh T, sinh năm 1986, hộ khẩu thường trú: thôn Ô, xã Đ, huyện B, H, vắng mặt có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 02/6/2018, Trần Văn Đ một mình đi từ B xuống H thăm bạn là Võ Thành V, Đ thuê phòng tại một nhà nghỉ bên khu vực M để chờ gặp V. Khi gặp V, do không có tiền tiêu xài nên Đ rủ V đi lang thang trên các tuyến đường xem ai sơ hở sẽ cướp giật tài sản, V đồng ý. Khoảng 19h00 ngày 03/6/2018, Đ điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đỏ - đen, biển kiểm soát 30Z5 - xxxx do V mượn của anh Nguyễn Bá T (sinh năm 1991, HKTT: M, phường M, quận N, H) chở V đến khu vực phường T, quận N, H để xem ai có sơ hở thì cướp giật. Đến khoảng 21h00, cùng ngày, khi cả hai đi đến khu tập thể H, phường T, quận N, H thì phát hiện cửa hàng điện thoại của anh Hà Minh T (sinh năm: 1986, NKTT: Thôn Ô, xã Đ, huyện B, tỉnh H) đang mở cửa, vắng người qua lại nên bàn nhau V là người giả vờ vào mua điện thoại sau đó lợi dụng người bán hàng không để ý sẽ cầm điện thoại bỏ chạy ra ngoài nơi Đ đỗ xe chờ sẵn rồi bỏ chạy. Sau khi thống nhất, Đ đỗ xe cách cửa hàng của anh T khoảng 10 mét, V đi vào cửa hàng gặp anh T vờ hỏi mua một chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung J7 Prime màu đen, anh T lấy điện thoại đưa cho V, V xem và giả vờ hướng điện thoại ra đường để chụp ảnh. Lợi dụng lúc anh T không để ý, V liền cầm chiếc điện thoại bỏ chạy ra xe Đ đang nổ máy chờ sẵn bên ngoài, Đ điều khiển xe máy chở V bỏ chạy theo hướng đường T được khoảng 20 mét thì bị anh T đuổi kịp túm áo của V kéo lại làm xe máy đổ ra đường, cả hai liền vứt điện thoại và xe máy lại và bỏ chạy. Đến ngày 17/6/2018, Đ và V bị Cơ quan điều tra bắt giữ.

Vật chứng thu giữ: 01 chiếc điện thoại Samsung J7 Prime màu đen không sim, số IMEI 1: 353415088962884/01; số IMEI 2: 353416088962554/02. 01 xe máy xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đỏ đen BKS: 30Z5 – xxxx, số khung: YJ09103, số máy: 2268476.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản 372/KLĐGTS ngày 18 tháng 6 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản quận N, kết luận: 01 chiếc điện thoại Samsung J7 Prime màu đen không sim, số IMEI 1: 353415088962884/01; số IMEI 2: 353416088962554/02 trị giá: 3.000.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra Trần Văn Đ và Võ Thành V khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên và khai trước đó đã 02 lần rủ nhau đi cướp giật tài sản nhưng chưa thực hiện được vụ nào. Ngoài ra, Trần Văn Đ còn khai nhận đã thực hiện hành vi Môi giới mại dâm cùng với Trương Công H (sinh năm 1997, HKTT: C, C, T) nên ngày 08/6/2018 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận N ra quyết định khởi tố vụ án hình sự số 216 và ngày 30/7/2018 ra quyết định khởi tố bị can số 437 đối với Trần Văn Đ về tội Môi giới mại dâm.

Đối với anh Nguyễn Bá T khi cho V mượn xe, anh T không biết V sử dụng để làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Ngày 05/9/2018, Cơ quan điều tra đã tiến hành trao trả cho anh Hà Minh T 01 chiếc điện thoại Samsung J7 Prime màu đen không sim, số IMEI 1: 353415088962884/01; số IMEI 2: 353416088962554/02, anh T không có yêu cầu bồi thường về dân sự.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đỏ đen BKS: 30Z5 – xxxx, số khung: YJ09103, số máy: 2268476, quá trình điều tra xác định xe không có trong cơ sở dữ liệu xe vật chứng; đăng ký xe mang tên ông Đỗ Ngọc H (sinh năm 1959, HKTT: Tổ 4, M, phường M, quận N, H). Ông H khai đã bán lại chiếc xe trên vào năm 2011 cho một người không quen biết và do anh Nguyễn Bá T khai đã mua lại chiếc xe trên của một người đàn ông ở M, N, H nên ngày 05/9/2018, Cơ quan điều tra đã tiến hành trao trả chiếc xe máy trên cho anh T.

Bản cáo trạng số 279/CT-VKS ngày 26/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận N đó truy tố cỏc bị cáo Trần Văn Đ và Võ Thành V về tội cướp giật tài sản theo quy định tại khoản 1 điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo Trần Văn Đ và Võ Thành V khai: Do không có tiền ăn tiêu nên Đ rủ V đi lang thang trên các tuyến đường xem có ai sơ hở thì cướp giật tài sản. V mượn xe máy của anh T cho Đ đèo, khi đi đến khu tập thể H, phường T, quận N, H, phát hiện thấy cửa hàng điện thoại của anh T đang mở cửa, vắng người qua lại nên sau khi bàn bạc, Đ đỗ xe cách cửa hàng của anh T khoảng 10m, V giả vờ vào mua điện thoại, khi anh T lấy điện thoại Samsung J7 Prime màu đen đưa cho V xem, V hướng điện thoại ra đường để chụp ảnh và cầm điện thoại bỏ chạy ra xe Đ đang chờ sẵn, ngay lúc đó anh T phát hiện đuổi theo, Đ đèo V chạy được khoảng 20 m thì bị anh T đuổi kịp túm áo V làm xe máy đổ ra đường, cả hai bị cáo đã vứt điện thoại lại bỏ chạy. Các bị cáo thừa nhận hành vi của mình đã phạm tội cướp giật tài sản như Cáo trạng truy tố.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận N trong phần luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng số 279/CT-VKS ngày 26/9/2018 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Văn Đ từ 15 đến 18 tháng tù. Xử phạt bị cáo Võ Thành V từ 12 đến 15 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo. Trách nhiệm bồi thường dân sự trong vụ án không xem xét.

Lời nói sau cùng các bị cáo Đ và V đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo Đ và V khai phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan, các biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, biên bản và sơ đồ dẫn giải, sơ đồ hiện trường, các biên bản và bản ảnh nhận dạng, bản ảnh vật chứng, phù hợp với bản Kết luận định giá tài sản số 372 ngày 18/6/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân quận N và phù hợp với các biên bản, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập được.

[3] Những chứng cứ trên đây đã có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 21 giờ ngày 03/6/2018, Trần Văn Đ và Võ Thành V đã có hành vi cướp giật 01 chiếc điện thoại Samsung J7 Prime màu đen, trị giá 3.000.000 đồng của anh Hà Minh T tại khu H, phường T, quận N, H. Hành vi của các bị cáo Trần Văn Đ, Võ Thành V đã phạm vào tội “cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự.

[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, xâm phạm đến trật tự an tòan xã hội. Trong vụ án này các bị cáo vì muốn kiếm tiền ăn tiêu đã bàn bạc cùng nhau đi cướp giật tài sản. Bị cáo Đ là người khởi xướng, rủ bị cáo V, chở bị cáo V đi cướp giật tài sản, đứng cảnh giới, đón bị cáo V chạy trốn khi đã cướp giật được tài sản. Bị cáo V là người trực tiếp cướp giật chiếc điện thoại của anh T nên cả hai bị cáo giữ vai trò như nhau. Hành vi của các bị cáo thể hiện rõ sự ngang nhiên, liều lĩnh coi thường pháp luật nên cần phải xử lý nghiêm, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Khi lượng hình phạt xét nhân thân bị cáo Đ đã bị phạt tù về tội cướp giật tài sản, bị cáo hiện còn bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận N khởi tố bị can về tội môi giới mại dâm do vậy cần phải xử lý nghiêm. Bị cáo V nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Cũng xét tại Cơ quan Điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội để cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cho thấy các bị cáo đều không có nghề nghiệp, kinh tế khó khăn nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Trách nhiệm dân sự trong vụ án, người bị hại anh Hà Minh T đã nhận lại tài sản, không yêu cầu các bị cáo bồi thường dân sự nên không đặt ra xem xét.

[8] Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, các bị cáo và người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 171, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự. Khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333, Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án đối với cả hai bị cáo.

Tuyên bố các bị cáo Trần Văn Đ và Võ Thành V phạm tội Cướp giật tài sản.

Xử phạt Trần Văn Đ 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/6/2018.

Xử phạt Võ Thành V 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/6/2018.

Các bị cáo Trần Văn Đ và Võ Thành V mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại Hà Minh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 271/2018/HS-ST

Số hiệu:271/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về