TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 242/2023/HS-ST NGÀY 19/05/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 19 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 153/2023/HSST ngày 02/3/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1723/2023/QĐXXST-HS ngày 19/4/2023, đối với các bị cáo:
1. Võ Tấn T, giới tính: Nam; Sinh năm: 1996, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký thường trú: 19/45B, phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: 16/2A phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: không ; Con ông Võ Tấn L, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị Bích N, sinh năm 1970; Vợ, con: chưa có; Tiền án: không; Tiền sự: không. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/7/2022. Có mặt.
2. Họ và tên: Lê Hoàng T1, giới tính: Nam; Sinh năm: 1993, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký thường trú: 243/17A Phường E, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 3/12; Nghề nghiệp: không; Con ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1968 và bà Lê Thị Kim A, sinh năm 1970; Vợ: Nguyễn Hoàng H, sinh năm 1989, đã ly hôn; Con: 01 người, sinh năm 2014; Tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: Bản án số 89/2015/HSST ngày 18/5/2015 Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, thi hành án tại Trại giam Thủ Đức, đã xóa án tích. Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/8/2022. Có mặt.
Bị hại:
1. Ông K, sinh năm 1992; Quốc tịch: Singapore; Nơi cư trú: 19.02 1056A phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt.
2. Bà Trần Minh T3, sinh năm 2000; Nơi cư trú: 45D đường 22, phường Phước Long I, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị Bích N, sinh năm 1970; Nơi cư trú: 20/2/5H, khu phố 5 phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Võ Tấn T và Lê Hoàng T1 là bạn bè quen biết ngoài xã hội. Do cần tiền tiêu xài cá nhân, Võ Tấn T rủ Lê Hoàng T1 đi cướp giật tài sản của người đi đường, T1 đồng ý. Cả hai thống nhất T1 là người trực tiếp cướp giật tài sản còn T điều khiển xe gắn máy theo phía sau T1, để ngăn cản người truy đuổi cho đến khi T1 gây án xong và mang tài sản đi tiêu thụ.
Vụ thứ nhất: Khoảng 19 giờ, ngày 14/6/2022, Thái điều khiển xe gắn máy hiệu Wave màu đỏ, biển số 59G2-249.07 lưu thông trên đường X đến trước số 171 đường Y, Phường E1, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh, thì phát hiện anh K (Quốc tịch Singapore) đang đứng sử dụng điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax trên lề đường. T1 gọi điện thoại báo cho T biết. Lúc này, T đang điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Vision màu trắng, biển số 59T1-673.91 lưu thông phía sau T1, nên T điều khiển xe máy vượt qua Thái và dừng bên phải lề đường X cảnh giới. T1 quay đầu cho xe lưu thông lên vỉa hè từ phía sau lưng anh K, T1 đến áp sát bên trái, dùng tay phải giật lấy điện thoại của anh K đang cầm trên tay rồi tăng ga tẩu thoát đến bãi đất trống đối diện số 209 đường 14, Phường E, Quận F để gặp T. T1đưa cho Tchiếc điện thoại vừa chiếm đoạt để T mang đi tiêu thụ. Đến khoảng 19 giờ 30 cùng ngày, T bán điện thoại trên cho một nam thanh niên (chưa rõ lai lịch) trên đường V, quận S, với giá 12.000.000 đồng và đưa số tiền trên cho T1, T1 chia cho T số tiền 1.200.000 đồng.
Vụ thứ hai: Khoảng 19 giờ 10 phút ngày 27/6/2022, T1 đang điều khiển xe gắn máy Honda Wave màu đỏ, biển số 59G2-249.07 lưu thông trên đường A đến trước số 311 A, Phường E2, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh, thì phát hiện chị Trần Minh T3 đang đứng sử dụng điện thoại hiệu Iphone 13 trên lề đường. T1 gọi điện thoại báo cho Tài biết. Lúc này, T đang điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Vision màu trắng, biển số 59T1-673.91 lưu thông phía sau T1, nên T điều khiển xe máy vượt qua T1 và dừng bên lề phải đường A để cảnh giới. T1 quay đầu cho xe lưu thông lên vỉa hè từ phía sau lưng chị T3 đến áp sát bên trái, dùng tay phải giật lấy điện thoại của chị T3 đang cầm trên tay rồi tăng ga tẩu thoát đến bãi đất trống đối diện số 209 đường 14, Phường E, Quận F. Thái đưa điện thoại vừa chiếm đoạt được cho Tài đi tiêu thụ rồi cả hai đi về hướng đường B.
Đến giao lộ đường B - Y, Phường E3, Quận F, Thái va chạm giao thông dẫn đến cự cãi, xô xát với anh Âu Minh T2. T chạy xe đến sau nhìn thấy nên xuống xe dùng hai tay ôm anh T2 can ngăn từ phía sau để T1bỏ chạy nên làm rơi điện thoại Iphone 13 vừa chiếm đoạt được. T1 điều khiển xe gắn máy biển số 59G2-249.07 tẩu thoát, T bỏ lại xe gắn máy biển số 59T1-673.91 để chạy bộ bỏ trốn.
Ngày 08/7/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh đã thi hành Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Võ Tấn T.
Ngày 13/8/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận F thi hành Lệnh bắt người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Lê Hoàng T1.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Võ Tấn T, Lê Hoàng T1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Kết luận định giá tài sản số 29/KL- HĐĐGTS ngày 17/6/2022 và 31/KL- HĐĐGTS ngày 05/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận 4, kết luận:
- Điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax 256GB, màu xanh của anh K có trị giá 17.500.000 đồng. Chưa thu hồi được điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax 256GB của anh K do điện thoại trên đã bị T mang đi tiêu thụ.
- Điện thoại hiệu Iphone 13 của chị Trần Minh T3 có trị giá 16.000.000 đồng.
Vật chứng thu giữ:
- 01 (một) điện thoại di động Iphone 13, màu trắng, Imei số:
351123622887961 đã trao trả tài sản cho chị Trần Minh T.
- 01 (một) xe gắn máy Wave màu đỏ, biển số 59G2-249.07 (biển số giả), không còn số khung, số máy, là phương tiện Thái sử dụng gây án. Qua xác minh, chiếc xe trên không có biển số do Thái mượn của một người tên Thọ (chưa rõ lai lịch), biển số giả trên Thái mua với giá 150.000 đồng để sử dụng.
- 01 (một) xe gắn máy Vision màu trắng, biển số 59T1-673.91, là phương tiện Tài sử dụng gây án. Qua xác minh chiếc xe do bà Nguyễn Thị Bích N (mẹ ruột của Võ Tấn T) đứng tên chủ sở hữu. Bà N cho Tài mượn đi công việc, bà N không biết Tài đã sử dụng xe máy thực hiện cướp giật tài sản và có yêu cầu được nhận lại xe.
- 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi màu đen, 01 (một) áo thun ngắn tay màu trắng, 01 (một) quần thun màu đen là trang phục Tài sử dụng gây án.
Về trách nhiệm dân sự:
- Ông K yêu cầu bồi thường trị giá tài sản bị chiếm đoạt là chiếc điện thoại Iphone 12 Promax 256GB, màu xanh. Tài và Thái chưa bồi thường.
- Chị Trần Minh T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường.
Tại bản Cáo trạng số: 99/CT-VKS-P2 ngày 21/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố: Võ Tấn T và Lê Hoàng T1 về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, từ đó giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo: Võ Tấn T và Lê Hoàng T1 mức hình phạt từ 04 năm đến 05 năm tù, về tội “Cướp giật tài sản”.
Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại là ông K yêu cầu các bị cáo bồi thường trị giá chiếc điện thoại Iphone 12 Promax và thiệt hại vật chất lẫn tinh thần tổng cộng 30.000.000 đồng, các bị cáo đồng ý bồi thường, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện bồi thường trên của các bị cáo.
Về vật chứng của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 xử lý theo quy định của pháp luật.
Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát và trong lời nói sau cùng các bị cáo đã ăn năn, hối cải về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Quá trình điều và tại phiên tòa, bị cáo Võ Tấn T và Lê Hoàng T1 không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Võ Tấn T và Lê Hoàng T1 tại phiên tòa cũng như các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định:
Vào khoảng 19 giờ, ngày 14/6/2022, tại trước số 171 đường Y, Phường E1, Quận F và khoảng 19 giờ 10 phút, ngày 27/6/2022 tại trước số 311 đường A, Phường E2, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh, Võ Tấn T và Lê Hoàng T1 đã cùng thực hiện hành vi điều khiển xe gắn máy cướp giật điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax 256GB, màu xanh của anh K có trị giá 17.500.000 đồng và điện thoại hiệu Iphone 13 của chị Trần Minh T3 có trị giá 16.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 33.500.000 đồng rồi nhanh chóng tăng ga xe tẩu thoát. Hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, thuộc trường hợp “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.
Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của các bị cáo Võ Tấn T và Lê Hoàng T1 là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Các bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình sẽ bị pháp luật trừng trị, nhưng chỉ vì tham lam, hám lợi nên các bị cáo đã bất chấp hậu quả. Bị cáo Lê Hoàng T1 có nhân thân xấu, đã bị xét xử nhưng vẫn cố ý phạm tội; bị cáo T là người rủ rê, lôi kéo bị cáo T1, bị cáo T1 là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, do đó cần có mức án nghiêm khắc, phù hợp đối với nhân thân, vai trò, tính chất của hành vi phạm tội của từng bị cáo nhằm cải tạo giáo dục riêng đối với các bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Xét thấy các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội 02 lần vào các ngày 14/6/2022 và ngày 27/6/2022, với mỗi lần thực hiện đều thỏa mãn cấu thành tội phạm, nên thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[4] Về trách nhiệm dân sự:
- Bị hại là ông K yêu cầu các bị cáo bồi thường trị giá chiếc điện thoại Iphone 12 Promax và thiệt hại vật chất lẫn tinh thần tổng cộng 30.000.000 đồng, các bị cáo đồng ý bồi thường. Hội đồng xét xử chấp nhận sự tự nguyện bồi thường trên của các bị cáo, nên buộc các bị cáo có trách nhiệm liên đới bồi thường cho ông K số tiền 30.000.000 đồng.
- Bị hại là bà Trần Minh T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên Tòa án không xem xét.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Công cụ, phương tiện mà các bị cáo dùng vào việc phạm tội thì tịch thu nộp ngân sách nhà nước gồm:
+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi màu đen;
+ 01 (một) xe gắn máy Wave màu đỏ), không còn số khung, số máy.
- Vật chứng là tài sản hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không liên quan đến vụ án nên trả lại bao gồm: Trả cho bà Nguyễn Thị Bích N 01 (một) xe gắn máy Vision màu trắng, biển số 59T1-673.91;
- Những vật chứng là vật dụng không còn giá trị sử dụng, biển số xe giả cần tịch thu tiêu hủy, gồm: 01 (một) biển số 59G2-249.07 (biển số giả), 01 (một) áo thun ngắn tay màu trắng và 01 (một) quần thun màu đen.
[6] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Võ Tấn T 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 08/7/2022.
Xử phạt bị cáo Lê Hoàng T1 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 13/8/2022.
- Căn cứ vào Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 Buộc các bị cáo Võ Tấn T và Lê Hoàng T1 liên đới bồ thường cho ông K số tiền 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng, cụ thể mỗi bị cáo bồi thường số tiền 15.000.000 (Mười lăm triệu) đồng, thi hành một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo chưa thanh toán đầy đủ các khoản tiền bồi thường về tài sản theo mức nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi bằng 50% mức lãi suất giới hạn theo quy định tại thời điểm thanh toán, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
- Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước:
+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi màu đen (màn hình bể, không kiểm tra được imei do không có nguồn điện, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong);
+ 01 (một) xe gắn máy hai bánh màu đỏ, nhãn hiệu không xác định, có chữ Honda, số loại không xác định, có đề can Wave, dung tích xilanh không xác định; SK: mài mất số; số máy: mài mất số (biển số giả, không gương, dàn nhựa bể, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra).
Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) biển số 59G2-249.07 (biển số giả), 01 (một) áo thun ngắn tay màu trắng và 01 (một) quần thun màu đen.
Trả cho bà Nguyễn Thị Bích N 01 (một) xe gắn máy màu trắng, nhãn hiệu Honda, số loại VISION, dung tích xilanh: 108, biển số 59T1-673.91; Số khung:
RLHJF5809EY007946; số máy: JF58E-0008061 (không gương, dàn nhựa bể, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra).
(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số: NK2023/191 ngày 13 tháng 3 năm 2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).
Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 750.000 (bảy trăm năm mươi nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Các bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 242/2023/HS-ST
Số hiệu: | 242/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về