TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 24/2023/HS-PT NGÀY 20/02/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 09/2023/HSPT ngày 11/01/2023 đối với các bị cáo Vũ Minh C Nguyễn Anh T do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đối với bản án hình sự sơ thẩm số 190/2022/HS-ST ngày 29/11/2022 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.
Các bị cáo bị kháng nghị:
1. Vũ Minh C, sinh năm: 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại: 9 Hòa Bình, Phường E, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Phi H và bà Trần Thị T1 (đều đã chết); chưa có vợ, con; tiền án: không; tiền sự: ngày 28/4/2020 bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đến ngày 21/11/2021 được tái hoà nhập cộng đồng.
Nhân thân:
- Ngày 08/6/2012, bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 09 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/02/2015;
- Ngày 13/10/2016, bị Công an Q, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt hành chính 2.500.000 đồng về hành vi xâm hại đến sức khỏe của người khác;
- Ngày 09/5/2017, bị Tòa án nhân Qu ận A, Th àn h phố Hồ Ch í Mi nh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đến ngày 07/5/2019 được tái hoà nhập cộng đồng.
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/3/2022 (có mặt).
2. Nguyễn Anh T, sinh năm: 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại: 6 N, Phường A, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: Phật; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Giang K và bà Nguyễn Th ị Bí ch L ; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không;
Nhân thân:
- Ngày 29/01/2013, bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 05/02/2015;
- Ngày 22/6/2016, bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 23/01/2019;
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/3/2022 (có mặt).
Trong vụ án này, còn có bị hại là bà Võ Thị Phương T2 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Vũ Thị Kim Ú, ông Lý Hán L1 có liên quan đến kháng nghị, nhưng xét thấy không cần thiết phải có mặt tại phiên toà nên Toà án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11 giờ 00 ngày 16/3/2022, Nguyễn Anh T điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Sonic, biển số 59K2 - xxxxx chở Vũ Minh C lưu thông trên đ ường K thì C phát hiện Võ Thị Phương T2 có đeo 01 sợi dây chuyền vàng đang đứng bên đường đối diện nhà số B Kênh T, phường H, quận T. C nảy sinh ý định cướp giật sợi dây chuyền của T2 bán lấy tiền tiêu xài nên rủ T giật sợi dây chuyền của T2, T đồng ý quay xe lại, rồi leo lên vỉa hè quay đầu xe ngược chiều, khi T2 đi bộ gần tới vỉa hè trước nhà số B Kênh T, phường H, quận T thì T điều khiển xe ngược chiều áp sát trước mặt T2, cho C ngồi sau dùng tay phải giật sợi dây chuyền của T2 rồi tăng ga tẩu thoát. C lấy sợi dây chuyền trên tay bỏ vào túi áo khoác bên trái rồi nói với T tìm tiệm vàng để bán lấy tiền chia nhau tiêu xài.
Khi C và T đi đến trước nhà số B đường B, phường B, quận B thì bị Tổ tuần tra Công an quận B kiểm tra hành chính, phát hiện trên người C có một sợi dây chuyền bị đứt, đồng thời C không chứng minh được nguồn gốc sợi dây chuyền nên tổ tuần tra Công an quận B đưa C, T về trụ sở Côn g an ph ường B , q uận B làm việc. Tại đây, C và T đã khai nhận hành vi cướp giật tài sản của mình nên Công an phường B đã bàn giao C, T, cùng vật chứng cho Công an phường H, quận T xử lý.
Tại bản kết luận định giá số 556/KL-HĐĐGTS ngày 26/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự q uận T kết luận: 01 đoạn dây chuyền bằng hợp kim vàng 16K dạng xoắn (phần khóa hợp kim vàng 15K) thời điểm ngày 16/3/2022 trị giá 4.616.179 đồng.
Vật chứng vụ án:
- 01 sợi dây chuyền bằng hợp kim vàng dạng xoắn bị đứt, Cơ quan điều tra đã trả cho Võ Thị Phươn g T2 .
- 01 xe máy hiệu Honda Sonic biển số: 59K2-xxxxx, số máy KB11E-1191114,số khung MH1KB1117KK194043.
- 01 áo khoác dài tay màu đen có nón trùm; 01 quần jean dài màu xanh rách bên gối trái.
- 01 áo khoác dài tay màu đen có nón trùm; 01 quần jean lửng màu đen.
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax màu trắng, số Imei 1: 353900101749723, số Imei 2: 353900101692642.
Tại bản cáo trạng số 108/CT-VKSQ.TP ngày 07/10/2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đã truy tố các bị cáo Vũ Minh C , Nguyễn Anh T về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 190/2022/HSST ngày 29/11/2022 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Vũ Minh C , Ng u yễ n Anh T phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Vũ Minh C 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/3/2022.
Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Anh T 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/3/2022.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bình xịt hơi cay màu đỏ, hiệu PROSECURE (Vật chứng hiện đang nhập kho theo Phiếu nhập kho vật chứng số 97/PNK ngày 11/9/2022 của Công an qu ận T ).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý các vật chứng khác, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Vũ Minh C , Nguyễn Anh T và những người tham gia tố tụng khác không có ai kháng cáo.
Ngày 12/12/2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKNPT-VKSQTP kháng nghị một phần bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sửa bản án sơ thẩm theo hướng: tăng mức hình phạt đối với bị cáo Vũ Minh C không áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, không tịch thu tiêu huỷ 01 bình xịt hơi cay màu đỏ, hiệu PROSECURE; áp dụng Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với các bị cáo Vũ Minh C và Nguyễn Anh T .
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, các bị cáo Vũ Minh C , Nguyễn Anh T đã thừa nhận các hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định bản án sơ thẩm đã áp dụng đúng các căn cứ pháp luật để xét xử các bị cáo Vũ Minh C , Nguyễn Anh T về tội danh “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú kháng nghị trong thời hạn luật định.
Xét thấy, trong vụ án này hai bị cáo phạm tội mang tính chất đồng phạm giản đơn, bị cáo C là người phát hiện tài sản sơ hở, đã khởi xướng và rủ rê bị cáo T thực hiện hành vi phạm tội, C cũng là người trực tiếp giật tài sản của bị hại, là người chủ mưu và là người thực hành; bị cáo T phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức khi điều khiển xe để C thực hiện hành vi phạm tội. Về nhân thân của bị cáo C 01 lần bị xử phạt tù về tội cướp giật tài sản và 02 lần bị đưa đi cai nghiện bắt buộc. Bản án sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo C 04 năm tù là nhẹ hơn so với bị cáo T, mức án trên là chưa tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội và chưa phân hoá vai trò phạm tội của các bị cáo. Khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo C và T, bản án sơ thẩm không áp dụng Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là thiếu sót. Ngoài ra, khi khám xét, cơ quan điều tra đã thu giữ trong túi quần bên phải của bị cáo C 01 bình xịt hơi cay màu đỏ, hiệu PROSECURE đã được cơ quan CSĐT Công an quận T tách ra để chuyển xử lý hành chính đối với bị cáo C về hành vi tàng trữ công cụ hỗ trợ; tại Phiếu nhập kho vật chứng số 97/LNK-ĐTTH ngày 11/9/2022 của Cơ quan CSĐT Côn g an quận T không thể hiện có 01 bình xịt hơi cay này. Bản án sơ thẩm áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu huỷ là không đúng, không thể thi hành được.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKNPT- VKSQTP ngày 12/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, sửa bản án sơ thẩm theo hướng: tăng mức hình phạt đối với bị cáo Vũ Mi nh C ; không áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, không tịch thu tiêu huỷ 01 bình xịt hơi cay màu đỏ, hiệu PROSECURE; áp dụng Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với các bị cáo Vũ Minh C và Nguyễn Anh T. Các bị cáo Vũ Mi nh C , Nguyễn Anh T không tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an q uận T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân qu ận T, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, các bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, các bị cáo Vũ Minh C , Nguyễn Anh T đã thừa nhận hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Cụ thể: vào khoảng 11 giờ 00 phút ngày 16/3/2022, tại trước nhà số B Kênh T, phường H, quận T, Ng uyễn Anh T điều khiển xe gắn máy chở Vũ Minh C ngồi sau dùng tay phải giật sợi dây chuyền vàng trị giá 4.616.179 đồng của Võ Thị Phương T2 đang đeo trên cổ rồi tăng ga tẩu thoát. Khi C và T chạy đến trước nhà số B B, phường B, quận B thì bị tổ tuần tra Công an quận B kiểm tra hành chính, tạm giữ C và T cùng tang vật, bàn giao cho Công an phường H, quận T xử lý.
Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm và các tài liệu chứng cứ khác như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản hỏi cung bị can, lời khai của người bị hại, kết luận định giá tài sản… các bị cáo đã sử dụng xe gắn máy là nguồn nguy hiểm cao độ để thực hiện hành vi phạm tội dễ gây tai nạn cho chính các bị cáo và cho người khác là phạm tội thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm. Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử các bị cáo Vũ Mi nh C , Nguyễn Anh T phạm tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Vũ Minh C , Nguyễn Anh T và những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo.
[3] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, Hội đồng xét xử nhận thấy:
- Đối với kháng nghị đề nghị tăng nặng hình phạt đối với bị cáo Vũ Minh C:
Nhận thấy, trong vụ án này bị cáo C là người phát hiện tài sản sơ hở, đã rủ rê bị cáo T cùng thực hiện hành vi phạm tội, C cũng là người trực tiếp giật tài sản của bị hại, là người khởi xướng và thực hành; bị cáo T phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức tích cực khi điều khiển xe để C thực hiện hành vi phạm tội. Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, cả hai đều có nhân thân xấu, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, vai trò của các bị cáo trong vụ án ngang nhau nhưng Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo Vũ Minh C mức hình phạt 04 năm tù, thấp hơn so với bị cáo Nguyễn Anh T (04 năm 06 tháng tù) là chưa phù hợp.
Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo C, T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, Toà án cấp sơ thẩm áp dụng cho các bị cáo tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Tuy nhiên, tài sản các bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại nhưng Toà án cấp sơ thẩm chưa xem xét áp dụng tình tiết phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng thêm tình tiết này cho các bị cáo.
Với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra, xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì mức án 04 năm tù mà Toà án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo Vũ Minh C là chưa tương xứng nên Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo C.
Riêng bị cáo Nguyễn Anh T phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức và có thêm tình tiết giảm nhẹ mới nhưng mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét giảm nhẹ hình phạt thêm cho bị cáo.
- Đối với kháng nghị đề nghị áp dụng Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với các bị cáo C và T khi quyết định hình phạt:
Hội đồng xét xử xét thấy tại mục [3] phần nhận định của bản án sơ thẩm đã nhận định về vai trò của các bị cáo, xác định các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm. Việc ghi áp dụng Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 tại phần Quyết định là không bắt buộc, nhưng để đảm bảo vụ án được xét xử toàn diện, đầy đủ, cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
- Đối với kháng nghị về xử lý vật chứng là 01 bình xịt hơi cay màu đỏ, hiệu PROSECURE thu giữ của bị cáo Vũ Minh C: Quá trình kiểm tra hành chính, cơ quan công an đã thu giữ trong túi quần bên phải của bị cáo C 01 bình xịt hơi cay màu đỏ, hiệu PROSECURE. Tại bản kết luận giám định số 4997/KL-KTHS ngày 08/9/2022 của Phòng K1 Công an Th ành p hố H kết luận: bình xịt gửi giám định là bình xịt hơi cay, thuộc nhóm công cụ hỗ trợ.
Tuy vậy, tại Lệnh nhập kho vật chứng và Phiếu nhập kho vật chứng số 97/LNK-ĐTTH ngày 11/9/2022 của Cơ quan CSĐT Côn g an q uận T không thể hiện có 01 bình xịt hơi cay màu đỏ, hiệu PROSECURE nhưng cấp sơ thẩm lại tuyên tịch thu tiêu huỷ theo điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự là chưa phù hợp. Bình xịt hơi cay này đã được Cơ quan CSĐT Côn g an qu ận T tách ra để xử lý hành chính đối với bị cáo C theo thẩm quyền nên Toà án không có cơ sở xem xét xử lý. Vì vậy, cần sửa bản án sơ thẩm, không xem xét giải quyết đối với 01 bình xịt hơi cay màu đỏ, hiệu PROSECURE trong vụ án này.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKNPT-VKSQTP ngày 12/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, sửa bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí: các bị cáo Vũ Mi nh C , Nguyễn Anh T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm a khoản 2 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Chấp nhận kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐKNPT-VKSQTP ngày 12/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, sửa bản án sơ thẩm số 190/2022/HSST ngày 29/11/2022 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Vũ Mi nh C 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 18/3/2022.
2. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Anh T 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 18/3/2022.
Không xem xét giải quyết đối với 01 (một) bình xịt hơi cay màu đỏ, hiệu PROSECURE trong vụ án này.
Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: các bị cáo Vũ Mi nh C , Nguyễn Anh T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 24/2023/HS-PT
Số hiệu: | 24/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về