Bản án về tội cướp giật tài sản số 151/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 151/2021/HS-ST NGÀY 14/12/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 144/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 248/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Từ Chí H, sinh năm 1981 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Hoa; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Từ Hải P (chết) và bà: Bành Gia N (chết); có vợ: không rõ và 01 con: sinh năm 2007; nhân thân:

- Bản án số 743/HSST ngày 15/3/2000 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”,

- Bản án số 739/HSST ngày 12/5/2003 Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”,

- Bản án số 213/2009/HSST ngày 21/8/2009 Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”,

- Quyết định số 181/QĐ-TA ngày 17/4/2015 Tòa án nhân dân Quận 8, Tp. Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng;

- Quyết định số 38/QĐ-UBND ngày 08/3/2018 Ủy ban nhân dân Phường 12, Quận 6 áp dụng biện pháp biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn 06 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;

tiền sự: Ngày 19/10/2018 Tòa án nhân dân quận 6, Tp. Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 17 tháng;

tiền án: không; tạm giữ, tạm giam: 05/01/2021. Có mặt.

2. Trương Châu Bảo D, sinh năm 1990 tại Bến Tre; nơi đăng ký thường trú: xã C, huyện D, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trương Văn T, sinh năm 1964 và bà: Châu Thị H, sinh năm 1968; có vợ: Nguyễn Thanh Trúc, sinh năm 1992 và con: 01 người, sinh năm 2018; tiền án: không; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: 05/01/2021. Có mặt.

- Bị hại: Chị Lê Thảo Bảo U, sinh năm 1999, nơi cư trú: Phường E, Quận F, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Thanh H1, sinh năm 1956, địa chỉ: Phường I, quận K, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 05/01/2021, Trương Châu Bảo D điều khiển xe gắn máy hiệu Dream biển số 53S6-X chở Từ Chí H lưu thông trên đường Âu Cơ, hướng về ngã tư X – Y. Khi đi đến trước số 136 đường T, Phường O, quận P thì H thấy chị Lê Thảo Bảo U đang điều khiển xe gắn máy chạy cùng chiều. Trong túi áo khoác chị U đang mặc có để lộ ra 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11. H nói với D: “con nhỏ chạy kế bên để điện thoại di động…mày thấy chưa”. D trả lời thấy rồi. Sau đó, D tăng ga xe áp sát chị U rồi dùng tay phải lấy được điện thoại trong túi áo khoác của chị U. Sau đó, D quăng điện thoại ra phía sau cho H giữ rồi tăng ga xe bỏ chạy. Chị U phát hiện tri hô “cướp, cướp…” rồi cùng người dân đuổi theo. Khi đến số 257 đường T, Phường O, quận P thì chị U tông xe vào xe của D làm cả hai té ngã, điện thoại rơi xuống đường. H tiếp tục nhặt điện thoại lên và bỏ chạy bộ. Người dân đuổi theo bắt giữ được D và H giao công an giải quyết.

Vật chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 trị giá 15.000.000 đồng kèm 01 ốp lưng điện thoại bằng nhựa trị giá 100.000 đồng, là tài sản bị chiếm đoạt, đã thu hồi trả lại cho bị hại chị Lê Thảo Bảo U. Chị U đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm.

- 01 áo khoác màu xanh ghi chữ Gojek và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen thu giữ của D.

- 01 áo sơ mi màu trắng sọc đen tay dài thu giữ của H.

- 01 xe gắn máy hiệu Dream biển số 53S6-X là phương tiện gây án thu giữ của D. D khai mượn của người bạn tên N (không rõ lai lịch). Qua giám định xe, số khung và số máy đã rỉ sét, không xác định được số nguyên thủy; biển số 53S6-X là của xe gắn máy hiệu Citi do ông Nguyễn Thanh H1 đứng tên chủ sở hữu. Ông H1 trình bày do xe đã cũ nên ông đã bán vào năm 2017, khi mua bán không làm giấy tờ, không nhớ bán cho ai. Ông không biết việc biển số 53S6-X được gắn trên chiếc xe gắn máy hiệu Dream, ông không có yêu cầu gì về biển số này.

Tại bản cáo trạng số 141/CT-VKS ngày 27 tháng 9 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố các bị cáo Từ Chí H và Trương Châu Bảo D về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo H từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù, bị cáo D từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Về vật chứng và trách nhiệm dân sự thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố các bị cáo Từ Chí H và Trương Châu Bảo D, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận các bị cáo Từ Chí H và Trương Châu Bảo D đã có hành vi cùng nhau điều khiển xe gắn máy áp sát rồi công khai giật lấy 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 trị giá 15.000.000 đồng kèm 01 ốp lưng điện thoại bằng nhựa trị giá 100.000 đồng của chị Lê Thảo Bảo U, đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”, thuộc trường hợp “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”, là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất táo bạo, liều lĩnh ngang nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác ngay trên đường phố nơi đông người và dùng thủ đoạn nguy hiểm là xe gắn máy phân khối lớn, là nguồn nguy hiểm cao độ làm phương tiện phạm tội, tiềm ẩn nguy cơ dễ gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của bị hại và những người đang lưu thông trên đường. Xét về tính chất vụ án là nghiêm trọng, các bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức hành vi cướp giật tài sản của người khác bị pháp luật nghiêm cấm và trừng trị nhưng chỉ vì muốn có tiền tiêu xài nên các bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm, chứng tỏ các bị cáo có thái độ coi thường pháp luật. Xét nhân thân bị cáo H là xấu, bị cáo đã nhiều lần bị kết án và xử lý hành chính nhưng không lấy làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm mục đích giáo dục, cải tạo các bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Lê Thảo Bảo U đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vật chứng vụ án:

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen thu giữ của bị cáo D, xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo D, không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên trả lại cho bị cáo D.

- 01 áo sơ mi màu trắng sọc đen tay dài thu giữ của bị cáo H và 01 áo khoác màu xanh ghi chữ Gojek thu giữ của bị cáo D, xét thấy các bị cáo không có yêu cầu nhận lại và là những vật không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy.

- 01 xe gắn máy hiệu Dream có số khung và số máy đã rỉ sét, không xác định được số nguyên thủy và 01 biển số 53S6-X thu giữ của bị cáo D, xét thấy xe gắn máy trên không có nguồn gốc rõ ràng nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước; đối với 01 biển số 53S6-X là vật không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171 và điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố các bị cáo Từ Chí H và Trương Châu Bảo D phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo : Từ Chí H 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2021.

Xử phạt bị cáo : Trương Châu Bảo D 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2021.

[2] Tịch thu và tiêu hủy: 01 áo sơ mi màu trắng sọc đen tay dài, 01 áo khoác màu xanh đen ghi chữ Gojek và 01 biển số 53S6-X.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 xe gắn máy hiệu Dream, số khung và số máy có hiện tượng đục không xác định được.

Trả lại cho bị cáo Trương Châu Bảo D 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, số imei 1: 359296/04/209522/5, số imei 2: 359296/04/209523/3 (Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 73/PNK ngày 28/4/2021 của Công an quận Tân Bình)

[3] Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

50
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 151/2021/HS-ST

Số hiệu:151/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về