Bản án về tội cướp giật tài sản số 12/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 12/2022/HS-ST NGÀY 19/04/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2021/TLST-HS, ngày 30 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2022/QĐXXST- HS ngày 02 tháng 3 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 24/2022/QĐST- HS ngày 16 tháng 3 năm 2022; Thông bào dời ngày xét xử số: 24/TB-TA ngày 05 tháng 4 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Hoàng S (tên gọi khác: Bi); sinh năm 1994, tại: Gia Lai. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố 8, thị trấn Đ, huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; con ông Nguyễn Ng, sinh năm 1962 và bà Trần Thị T, sinh năm 1964. Tiền án: Ngày 31/3/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai xử phạt 30 tháng tù, về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 03/02/2018 chấp hành xong hình phạt tù (chưa được xóa án tích). Ngày 07/3/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai xử phạt 06 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”. Ngày 14/11/2019 chấp hành xong hình phạt tù (chưa được xóa án tích). Ngày 21/7/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai xử phạt 09 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”. Ngày 19/12/2020 chấp hành xong hình phạt tù (chưa được xóa án tích).Tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 25/4/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng, về tội: “Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích). Ngày 25/01/2022, bị Tòa án nhân dân Tp Kom Tum xử phạt 30 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”. Tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/6/2021 đến nay. Có mặt

2. Trần Nhật Ph (tên gọi khác: Đô); sinh năm 1986; tại Kon Tum; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn 2, xã A, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Không; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần L, sinh năm 1956 và bà Lê Thị T, sinh năm 1957; Bị cáo có vợ Trần Thị Phương T, sinh năm 1990 (đã ly hôn) và 01 người con sinh năm 2011. Tiền án: Không. Tiền sự: Ngày 28/01/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 24 tháng. Ngày 04/9/2020 Sơn chấp hành xong quyết định (chưa được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính) Nhân thân: Ngày 25/01/2022, bị Tòa án nhân dân Tp Kom Tum xử phạt 12 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”. Tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/6/2021 đến nay. Có mặt

- Bị hại:

1. Cháu Đặng Nhật K, sinh ngày 17/8/2010. Người đại diện hợp pháp: Chị Đặng Thị Tuyết T và anh Đặng Hoàng V (bố mẹ đẻ). Địa chỉ: Thôn 4, xã H, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt

2. Cháu Nguyễn Đỗ Khánh Ng, sinh ngày 08/02/2013. Người đại diện hợp pháp: Chị Đỗ Thị Thiên L và anh Nguyễn Đại M (bố mẹ đẻ). Địa chỉ: Thôn T, xã I, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Đặng Nhật K và Nguyễn Đỗ Khánh N: Bà Trang Thị Thùy D - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Gia Lai. Địa chỉ: Số 46 Lê Thánh Tôn, Tp. Pleiku, tỉnh Gia Lai. Có mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Đặng Thị Tuyết T, sinh năm 1986. Địa chỉ: Thôn 4, xã H, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. Có đơn xin xét xử vắng mặt

2. Chị Đỗ Thị Thiên L, sinh năm 1985. Địa chỉ: Thôn T, xã I, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. Có đơn xin xét xử vắng mặt

3. Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1981. Địa chỉ: Tổ 1, phường P, Tp. Pleiku, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong thời gian từ ngày 28/4/2021 đến ngày 29/4/2021 Nguyễn Hoàng S và Trần Nhật P đã hai lần thực hiện hành vi cướp giật tài sản trên địa bàn huyện Chư Păh, cụ thể:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 08 giờ 00 ngày 28/4/2021, Trần Nhật P điều khiển xe mô tô Suzuki ViVa BKS 82K4-1953 của P chở Nguyễn Hoàng S đi đến thành phố Kon Tum chơi. Sau đó cả hai đi về và vào nhà Nguyễn Thành T, tại thôn 4, xã H, huyện Chư Păh chơi. Đến khoảng 14 giờ 30 cùng ngày thì P lại chở S về. Trên đường về cả hai bàn bạc thống nhất với nhau đi cướp giật tài sản. Khi cả hai đi ngang qua nhà chị Đỗ Thị Thiên L, ở thôn 4, xã H, huyện Chư Păh, S thấy cháu Nguyễn Đỗ Khánh Ng là con của chị L đang chơi điện thoại hiệu Sam Sung A12 trong quán tạp hóa. S nói P dừng lại để S vào cướp điện thoại. P dừng xe ngoài đường đứng chờ, còn S đi bộ vào bên trong quán, quan sát thấy cháu Ng ngồi một mình, S dùng tay giật chiếc điện thoại trên tay cháu Ng rồi chạy ra ngồi lên xe để P chở chạy về thành phố Pleiku. Đến tiệm điện thoại Tân Thế Giới, S vào trong gặp anh Nguyễn Thanh T, trú tại tổ 1, phường P, thành phố Pleiku là chủ tiệm. S đưa chiếc điện thoại vừa mới cướp giật được ra nói với anh T điện thoại đó là của S cần bán. Anh T mua với giá 1.500.000 đồng. Chiếc điện thoại đó sau này anh T đã bán lại cho người khác không nhớ là ai. Số tiền có được cả hai chia nhau tiêu xài cá nhân hết.

Lần thứ hai: Đến khoảng 08 giờ 00 ngày 29/4/2021, Trần Nhật P điều khiển xe mô tô Suzuki ViVa BKS 82K4-1953 chở Nguyễn Hoàng S đi đến thành phố Kon Tum chơi. Đến khoảng 11 giờ 30 cùng ngày thì P chở Sơn về. Trên đường về cả hai bàn bạc thống nhất với nhau đi cướp giật tài sản. Khi cả hai đi đến địa phận thôn Tân Lập, xã Ia Khươl, huyện Chư Păh, S thấy trong nhà chị Đặng Thị Mỹ L, có cháu Đặng Nhật K, là con của chị Đặng Thị Tuyết T trú tại thôn 4, xã H, huyện Chư Păh (chị T là chị gái của chị L), đang ngồi một mình chơi điện thoại hiệu Redmi 9T màu xanh của chị T trong nhà chị L. S nói P dừng lại để S vào cướp điện thoại. P dừng xe ngoài đường chờ, còn S đi bộ vào bên trong nhà dùng tay giật chiếc điện thoại trên tay cháu K rồi chạy ra ngồi sau xe để P chở chạy về hướng thành phố Kon Tum. Còn cháu K sau khi bị cướp điện thoại đã nói cho chị L biết, chị L đuổi theo nhưng không kịp. Sau khi cướp được điện thoại P chở S đến thành phố Kon Tum, S vào một tiệm điện thoại (không nhớ tên địa chỉ), nói điện thoại của mình và bán được 1.500.000 đồng. Số tiền có được cả hai chia nhau tiêu xài hết.

Ngày 03/6/2021, Nguyễn Hoàng S đến Công an huyện Chư Păh tự thú khai rõ đã cùng với Trần Nhật P hai lần thực hiện hành vi phạm tội. Nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chư Păh đã tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Trần Nhật P, đồng thời thu giữ của P chiếc xe mô tô Suzuki Viva 110, BKS 82K4-1953. Sau đó, cả S và P bị tạm giữ, tạm giam.

Tại bản Kết luận định giá số 06/KL-ĐGTS ngày 09/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Chư Păh kết luận: Điện thoại di động hiệu Sam Sung A12 loại cảm ứng màu đen có giá trị là 2.600.000 đồng; Điện thoại di động hiệu Redmi 9T loại cảm ứng màu xanh dương có giá trị là 2.500.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số: 24/CT-VKS ngày 29 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai truy tố các bị cáo Nguyễn Hoàng S và Trần Nhật P về tội: “Cướp giật tài sản”quy định tại điểm g khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo. Đề nghị HĐXX:

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 171; điểm h, s, r khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38; 56, 58 của Bộ luật hình sự. Tuyên phạt bị cáo Nguyễn Hoàng S từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm 06 tháng tù.

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; 56, 58 của Bộ luật hình sự. Tuyên phạt bị cáo Trần Nhật P từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù.

Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án: Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng S phải chấp hành hình phạt 30 tháng tù và bị cáo Trần Nhật P phải chấp hành hình phạt 12 tháng tù của bản án hình sự sơ thẩm số 17/2022/HS- ST ngày 25/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo Nguyễn Hoàng S và Trần Nhật Ph đều không có công việc ổn định, không có tài sản gì, nên đề nghị không áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo.

Về dân sự:

Cháu Nguyễn Đỗ Khánh Ng và chị Đỗ Thị Thiên L không yêu cầu các bị cáo bồi thường về dân sự.

Cháu Đặng Nhật K và chị Đặng Thị Tuyết T yêu cầu các bị cáo phải bồi thường số tiền 2.500.000 đồng. Hiện tại các bị cáo chưa bồi thường. Do đó căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 584, 585, 587, 589 của Bộ luật dân sự. Buộc Nguyễn Hoàng S và Trần Nhật P phải liên đới bồi thường 2.500.000 đồng cho cháu Đặng Nhật K và chị Đặng Thị Tuyết T.

Vật chứng: Đối với điện thoại hiệu Sam Sung A12 và điện thoại hiệu Redmi 9T, quá trình điều tra không thu hồi được.

Đối với chiếc xe mô tô Suzuki Viva 110, BKS 82K4-1953 là phương tiện mà Nguyễn Hoàng S và Trần Nhật P sử dụng để cướp giật tài sản. Quá trình điều tra xác định chiếc xe nêu trên là do P mua lại của người khác nhưng không có giấy tờ mua bán hợp pháp. Nguồn gốc chiếc xe này là của anh Cao Văn L, trú tại thôn 3, xã T, huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum và chiếc xe này của anh L bị kẻ gian lấy trộm vào 23/12/2020 tại thôn 3, xã Tân C, huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai đã thông báo và chuyển chiếc xe trên đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum để giải quyết theo quy định.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Hoàng S và Trần Nhật P thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, thống nhất bản luận tội của Đại diện Viện kiểm sát.

Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại cháu Đặng Nhật K và Nguyễn Đỗ Khánh Ng: Thống nhất với vị Đại diện Viện kiểm sát về tội danh, mức hình phạt đối với các bị cáo cũng như mức bồi thường cho bị hại.Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị không áp dụng cho các bị cáo tình tiết “phạm tội gây thiệt hại không lớn” vì các bị cáo không những gây thiệt hại về tài sản mà còn gây thiệt hại về tinh thần cho các bị hại, vì bị hại đều là người dưới 16 tuổi. Đề nghị Hội đồng xét xử xét xử các bị cáo mức án cao nhất mà đại diện VKS đã đề nghị đối với các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Chư Păh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Xét lời khai của các bị cáo Nguyễn Hoàng S và Trần Nhật P tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án.Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận: Vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân bằng con đường bất chính, cùng với một thủ đoạn lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu nên ngày 28/4/2021, tại nhà chị Đỗ Thị Thiên L, ở thôn 4, xã H, huyện Chư Păh, Nguyễn Hoàng S đã thực hiện hành vi dùng tay giật chiếc điện thoại hiệu Sam Sung A12 mà cháu Nguyễn Đỗ Khánh Ng, sinh năm 2013 đang sử dụng có giá trị là 2.600.000 đồng. Đến ngày 29/4/2021 tại nhà chị Đặng Thị Mỹ L ở thôn T, xã I, huyện Chư Păh, S tiếp tục thực hiện hành vi dùng tay giật chiếc điện thoại hiệu Redmi 9T có giá trị là 2.500.000 đồng mà cháu Đặng Nhật K, sinh năm 2010 đang sử dụng. Cả hai lần sau khi giật điện thoại xong S đều nhanh chóng chạy ra ngồi lên xe để Trần Nhật P chở bỏ chạy. Hành vi của các bị cáo Nguyễn Hoàng S và Trần Nhật P đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”. Tại thời điểm phạm tội, cháu Đặng Nhật K và Nguyễn Đỗ Khánh Ng đều dưới 16 tuổi nên các bị cáo phải chịu tình tiết định khung hình phạt “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi” quy định tại điển g khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự như Viện Kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Các bị cáo là người đã thành niên, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu để tiếp cận và công khai chiếm đoạt tài sản của người khác thông qua việc giật lấy tài sản sau đó nhanh chóng tẩu thoát. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn, không có sự câu kết chặt chẽ, các bị cáo bàn bạc thống nhất với nhau đi cướp giật tài sản, bị cáo Trần Nhật P trực tiếp điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Hoàng S đi tìm người nào cầm điện thoại để cướp và đưa đi tiêu thụ. Còn bị cáo Nguyễn Hoàng S là người trực tiếp giật điện thoại của các bị hại. Do đó, khi lượng hình Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 58 của Bộ luật hình sự để xem xét, quyết định hình phạt phù hợp với tính chất, vai trò của từng bị cáo. Cần tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục các bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:

- Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo Nguyễn Hoàng S trước đây đã bị kết án nhiều lần, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản mà lại tiếp tục phạm tội. Sau khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản tại huyện Chư Păh, các bị cáo lại tiếp tục phạm tội tại thành phố Kom Tum, tỉnh Kom Tum, nên ngày 25/01/2022, Tòa án nhân dân Tp Kom Tum xử phạt Nguyễn Hoàng S 30 tháng tù và Trần Nhật P 12 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “phạm tội 02 lần trở lên”, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn Hoàng S đã bị kết án chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, nên phạm vào tình tiết “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

- Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo; phạm tội gây thiệt hại không lớn, quy định tại các điểm s, h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn Hoàng S sau khi phạm tội đã ra tự thú, nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo Nguyễn Hoàng S và Trần Nhật P không có công việc ổn định, không có tài sản gì, nên không áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về dân sự:

- Cháu Nguyễn Đỗ Khánh Ng và chị Đỗ Thị Thiên L không yêu cầu các bị cáo bồi thường về dân sự nên không xem xét.

- Cháu Đặng Nhật Kvà chị Đặng Thị Tuyết T yêu cầu các bị cáo phải bồi thường giá trị chiếc điện thoại hiệu Redmi 9T là 2.500.000 đồng. Do đó buộc Nguyễn Hoàng S và Trần Nhật P mỗi bị cáo phải bồi thường 1.250.000 đồng cho cháu Đặng Nhật K và chị Đặng Thị Tuyết T.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với điện thoại hiệu Sam Sung A12 và điện thoại hiệu Redmi 9T, quá trình điều tra không thu hồi được.

Đối với chiếc xe mô tô Suzuki Viva 110, BKS 82K4-1953 là phương tiện mà Nguyễn Hoàng S và Trần Nhật P sử dụng để cướp giật tài sản. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai đã thông báo và chuyển chiếc xe trên đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum để giải quyết theo quy định, nên không xem xét.

[7] Về án phí: Buộc các bị cáo Nguyễn Hoàng S và Trần Nhật P phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Đối với anh Nguyễn Thanh T đã có hành vi mua chiếc điện thoại hiệu hiệu Sam Sung A12 từ Nguyễn Hoàng S. Tuy nhiên, khi mua bán thì anh T không biết chiếc điện thoại đó là do S phạm tội mà có, nên không xem xét xử lý.

[9] Hội đồng xét xử xét thấy lời đề nghị của Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh về tội danh và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt đối với bị cáo là có cơ sở, cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hoàng S và Trần Nhật P phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 171; điểm h, s, r khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38; 58 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng S 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù.

Căn cứ Điều 56 của Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt: Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng S phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam là ngày 03/6/2021.

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; 58 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Nhật P 04 (bốn) năm tù.

Căn cứ Điều 56 Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt: Buộc bị cáo Trần Nhật P phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam là ngày 03/6/2021.

Về dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự. Điều 584, 585, 587, 589 của Bộ luật dân sự. Buộc các bị cáo Nguyễn Hoàng S và Trần Nhật P mỗi bị cáo phải bồi thường 1.250.000 đồng cho cháu Đặng Nhật K và chị Đặng Thị Tuyết T.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Buộc các bị cáo Nguyễn Hoàng S và Trần Nhật P mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án vắng mặt tại phiên toà có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại Ủy ban nhân dân xã, phường nơi cư trú./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 12/2022/HS-ST

Số hiệu:12/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về