TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 03/2024/HS-PT NGÀY 02/01/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 02 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 283/2023/TLPT-HS ngày 01/12/2023 đối với bị cáo Trần Đức Q về tội “Cướp giật tài sản”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2023/HS-ST ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đ, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 283/2023/QĐXXPT-HS ngày 19/12/2023 đối với:
Bị cáo: Trần Đức Q; sinh ngày 12/8/2000, tại tỉnh Đ; nơi thường trú: TDP 13, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đ; chỗ ở trước khi phạm tội: Thôn 10, xã E, huyện E, tỉnh Đ; trình độ học vấn: 08/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông: Trần Đức M, sinh năm 1964 và bà Trần Thị H, sinh năm 1975; bị cáo có vợ là Phạm Thị Khánh L, sinh năm 1998 và 01 con sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: không.
Hiện bị cáo đang tại ngoại theo Quyết định cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo vắng mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, vụ án còn có bị cáo Huỳnh Chí T nhưng không kháng cáo, không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng giữa tháng 12/2022, thông qua mạng xã hội Facebook, Trần Đức Q đặt mua 10 cây thuốc lá điện tử nhãn hiệu POD CHILL MASTER của anh Bùi Văn M với giá 2.800.000đ (hai triệu tám trăm nghìn đồng). Q cung cấp địa chỉ nhận hàng tại thôn B, xã E, huyện K, tỉnh Đăk Lăk, tên người nhận là “b”, số điện thoại 078447xxxx. Sau đó, anh M gói 10 cây thuốc lá điện tử trong một hộp giấy rồi gửi cho Q thông qua dịch vụ Giao hàng tiết kiệm. Để thuận lợi cho việc gửi hàng anh M ghi nhãn hàng hóa là “máy massage bụng”. Ngày 22/12/2022, gói hàng trên được chuyển đến kho hàng tại thôn T, xã E, huyện K, tại đây anh Hoàng Văn K, là nhân viên của Công ty cổ phần giao hàng tiết kiệm, được giao tránh nhiệm chuyển giao đơn hàng nói trên. Khoảng hơn 12 giờ cùng ngày, anh K sử dụng số điện thoại 091465xxxx gọi đến số 078447xxxx của Q để thông báo nhận hàng. Lúc này, Q đang đi chơi cùng bị can Huỳnh Chí T tại xã P, huyện K, tỉnh Đăk Lăk nên đã rủ T đi cùng vào xã E để nhận hàng. Trên đường đi, Q nói với T về việc có đặt mua 10 cây thuốc lá điện tử nhưng không có tiền trả và nghi ngờ là hàng không đúng chất lượng nên Q có ý định nhận hàng nhưng không trả tiền và bỏ chạy. Nghe vậy, T đồng ý tham gia cùng với Q. Khi đến xã E, Q hẹn anh K đến trước quán cà phê H thuộc thôn T, xã E để giao nhận hàng. Khoảng 14 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47U1-xxxx chở Q đến trước quán cà phê H thấy anh K đang đứng chờ trên lề đường. Lúc này, T dừng xe sát lề đường cách anh K khoảng 07 mét để Q đi bộ lại gặp anh K nhận hàng. Khi anh K đưa gói hàng, Q mở ra xem và lấy một cây thuốc lá điện tử hút thử. Ngay sau đó, Q nói với T mở cốp xe mô tô ra để lấy tiền thanh toán. Đồng thời Q di chuyển lại chỗ T rồi nhanh chóng cầm gói hàng thuốc lá điện tử ngồi lên sau xe mô tô cùng T tẩu thoát về hướng thôn T, xã E. Thấy vậy, anh K đuổi theo và nhặt một cục đá ném về phía xe của Q và T nhưng không trúng. Sau đó, Q đưa cho T 01 cây thuốc lá điện tử còn bản thân giữ lại 09 cây để sử dụng. Sau khi bị chiếm đoạt gói hàng thuốc lá điện tử, anh K trình báo sự việc Cơ quan CSĐT Công an huyện K.
Tại bản kết luận định giá số 20/KL-HĐĐGTS ngày 28/7/2023 của Hội đồng định giá tài sản huyện K xác định: Giá trị của kiện hàng gồm 10 (mười) vỏ hộp giấy màu nâu, trên vỏ hộp có dòng chữ “MASTER” bên trong mỗi hộp chứa 01 (một) cây thuốc lá điện tử loại POD CHILL MASTER có chiều dài 10,3 cm, đường kính 1,5 cm là 2.837.000đ (hai triệu tám trăm ba mươi bảy ngàn đồng).
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2023/HSST ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đ đã quyết định:
- Áp dụng khoản 1 Điều 171; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Đức Q 02 (Hai) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với bị cáo Huỳnh Chí T, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 09/10/2023, bị cáo Trần Đức Q có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại cấp sơ thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, việc Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần Đức Q về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự là đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét mức hình phạt 02 năm tù đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, xử phạt bị cáo Trần Đức Q 01 năm 09 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Đồng thời đề nghị giữ nguyên các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1]. Về phần thủ tục tố tụng: Vào sáng ngày 02/01/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Đ nhận được Đơn xin rút toàn bộ đơn kháng cáo của bị cáo Trần Đức Q không ghi ngày tháng năm, đơn được gửi qua đường bưu điện ngày 29/12/2023 nhưng không có chữ ký của bị cáo nên xét thấy Đơn xin rút kháng cáo của bị cáo không hợp lệ. Do vậy, căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo Q.
[2]. Quá trình xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm thì đã có đủ căn cứ pháp lý để kết luận: Ngày 22/12/2022 tại thôn T, xã E, huyện K, Trần Đức Q cùng Huỳnh Chí T đã thực hiện hành vi cướp giật gói hàng gồm 10 cây thuốc lá điện tử trị giá 2.837.000đ của anh Hoàng Văn K rồi tẩu thoát. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần Đức Q về tội "Cướp giật tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Đức Q, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mức hình phạt 02 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là phù hợp với hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo. Tại Tòa án cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên Bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.
[4]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Do không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Đức Q, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2023/HSST ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đ về hình phạt.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 171; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Trần Đức Q 02 (Hai) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
3. Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Trần Đức Q phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 03/2024/HS-PT
Số hiệu: | 03/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về