Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 76/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 76/2022/HS-PT NGÀY 31/05/2022 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 54/2022/TLPT-HS ngày 15 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Văn H, Hứa Văn T do có kháng cáo của bị cáo H, T và bị hại Trần Hoàng N đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2022/HS-ST ngày 11 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Văn H, sinh năm 1977 tại tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Ấp B, xã Tr, huyện Tr, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Nguyễn Chí Th và bà Bùi Thị Ng; có vợ và có 02 người con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 24/02/2022 đến nay. Bị cáo có mặt.

2. Hứa Văn T, sinh năm 1970 tại tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Ấp K, xã Kh, huyện Tr, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Hứa Văn T1 (đã chết) và bà Bùi Thị M; có vợ và có 02 người con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 24/02/2022 đến nay. Bị cáo có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo: Luật sư Võ Thanh T của Văn phòng Luật sư Thanh T thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Cà Mau. Luật sư có mặt.

- Bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị (Tòa án không triệu tập): Nguyễn Chí L (tên gọi khác là T1), sinh năm 1984 Nơi cư trú: Ấp 0, xã Tr, huyện Tr, tỉnh Cà Mau

- Bị hại có kháng cáo: Ông Trần Hoàng N, sinh năm 1971 (có mặt) Nơi cư trú: Ấp 3, xã Tr, huyện Tr, tỉnh Cà Mau

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Hoàng N làm nghề đi thu mua chuối của người dân trên địa bàn xã Tr, huyện Tr, tỉnh Cà Mau. Sau khi mua chuối của người dân xong thì N đem về bán lại cho vựa chuối Nguyễn Chí L (T1) tại ấp 0, xã Tr, huyện Tr. Trong quá trình làm ăn thì L có cho N mượn tiền, mục đích để N bán chuối lâu dài lại cho L. Sau khi mượn tiền thì N không bán chuối cho L nên khoảng 14 giờ 30 phút ngày 01/10/2020, L đến nhà Trần Hoàng N ở Ấp 3, xã Tr, huyện Tr, tỉnh Cà Mau để đòi tiền. Do không gặp N nên L đi tìm thì gặp N đang uống nước tại quán cà phê của Trần Thanh L1 ngụ cùng ấp 3. L vào gặp N đòi tiền thì N nói chưa có tiền trả. L nói tiền vay ngân hàng đưa cho mượn nhưng N không bán chuối cho L. L chửi thề “đụ mẹ bữa nay phải trả tiền cho xong, không hứa hẹn gì hết, không trả tiền lấy xe trừ nợ”. N không đồng ý giao xe cho L nên ra xe nói đi lấy tiền lại trả. L ngăn cản không cho N lấy xe đi mục đích giữ xe lại để lấy trừ nợ trái với ý muốn của N (N không đồng ý giao xe nên lấy chìa khóa xe). L điện thoại cho Nguyễn Tuấn A (T3) điều khiển vỏ máy đến chở xe mô tô hiệu Wave RSX, biển kiểm soát 69N1-203.60 của N về vựa chuối của L.

Ngoài ra, ngày 12/10/2020 Trần Hoàng N cùng người thân điều khiển vỏ máy chở 1.450kg chuối buồng (loại chuối sim) đến vựa chuối Phạm Văn L2 ở ấp B, xã Tr, huyện Tr, tỉnh Cà Mau để bán. Tại đây, N gặp và ngồi uống nước với Võ Chí Ng (lái xe cho vựa chuối L). Nguyện kêu N bán chuối xong trả tiền cho L để L trả tiền cho Ng (do trước đó L có thiếu tiền Nguyện) nhưng N không đồng ý. Ng điện thoại cho L biết việc N đang bán chuối cho vựa Lãm. Khoảng 10 phút sau thì L đến gặp N để đòi tiền nhưng N nói không có tiền trả. L không đồng ý cho N nợ tiền nữa nên nói “bữa nay không trả tiền lấy vỏ máy với chuối trừ nợ, thằng nào hó hé ngăn cản đánh luôn”. L điện thoại cho Hứa Văn T (người làm thuê đang đi mua chuối cho L cùng với Nguyễn Văn H, Nguyễn Bá Đ) về ghé lại vựa chuối L1 kè vỏ chuối về cho L. Khi T, H, Đ về đến vựa chuối L1 thì gặp L. L nói N thiếu tiền không chịu trả nên lấy vỏ máy với chuối. H và T nghe L nói và biết rõ lấy tài sản của N là để trừ nợ. H kêu T mở dây vỏ của N rồi kè vỏ máy chở chuối của N về vựa chuối của L. Qua làm việc, Nguyễn Chí L, Nguyễn Văn H và Hứa Văn T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kết luận định giá số 03 ngày 24/02/2021 của Hội đồng định giá thuộc UBND huyện Trần Văn Thời kết luận: 1.450kg chuối sim trị giá 6.525.000 đồng.

Kết luận định giá số 08 ngày 05/4/2021 của Hội đồng định giá thuộc UBND huyện Trần Văn Thời kết luận: 01 xe mô tô hiệu Wave RSX, biển kiểm soát 69N1- 203.60 trị giá 8.800.000 đồng; 01 máy nổ 3T86 có hộp chuyền nhông, cần cung, dàn cầu, bọc láp bằng sắt, chân vịt Inox 3 chia trị giá 12.000.000 đồng; 01 vỏ cắt láy bằng gỗ có lắp keo, vỏ có chiều dài 8m90, rộng 1,4m, xâu 0,6m trị giá 8.000.000 đồng; 01 bình ắc quy hiệu Đồng Nai 100 AP trị giá 300.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 29.100.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2022/HS-ST ngày 11 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 170; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo H 06 (sáu) tháng tù, xử phạt bị cáo T 06 (sáu) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên phạt đối với bị cáo còn lại, án phí, quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 15/3/2022, bị hại N kháng cáo xin cho 02 bị cáo H và T được hưởng án treo.

nhất.

Ngày 24/3/2022, bị cáo H và bị cáo T kháng cáo xin giảm nhẹ với mức án thấp Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị hại và các bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau: Đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo H, T và bị hại, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2022/HS-ST ngày 11 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời về phần hình phạt đối với các bị cáo H và T.

- Bị hại N trình bày: Đề nghị cho các bị cáo H và T được hưởng án treo với lý do mức án mà cấp sơ thẩm xử phạt đối với các bị cáo là quá cao, các bị cáo là lao động chính trong gia dình và hoàn cảnh rất khó khăn, nếu bắt các bị cáo chấp hành hình phạt tù sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình của các bị cáo.

- Luật sư bào chữa cho các bị cáo H và T trình bày: Đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt với mức thấp hơn mức án mà cấp sơ thẩm đã quyết định.

- Lời nói sau cùng của bị cáo H: Thống nhất với nội dung kháng cáo của bị hại. Bị cáo đang phải nuôi con học Đại học năm thứ hai. Thừa nhận hành vi phạm tội và xin được hưởng mức án thấp nhất.

- Lời nói sau cùng của bị cáo T: Thống nhất với nội dung kháng cáo của bị hại. Thừa nhận hành vi phạm tội và xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo thừa nhận: Ngày 12/10/2020 tại ấp B, xã Tr, huyện Tr, tỉnh Cà Mau, Nguyễn Chí L có hành vi đe dọa dùng vũ lực đối với ông Trần Hoàng N và được Nguyễn Văn H, Hứa Văn T giúp sức đã chiếm đoạt 1.450kg chuối sim trị giá 6.525.000 đồng, 01 máy nổ 3T86 có hộp chuyền nhông, cần cung, dàn cầu, bọc láp bằng sắt, chân vịt Inox 3 chia trị giá 12.000.000 đồng; 01 vỏ cắt láy bằng gỗ có lắp keo, vỏ có chiều dài 8m90, rộng 1,4m, sâu 0,6m trị giá 8.000.000 đồng; 01 bình ắc quy hiệu Đồng Nai 100 AP trị giá 300.000 đồng. Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 26.825.000 đồng. Ngoài ra, vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 01/10/2020 tại Ấp 3, xã Tr, huyện Tr, tỉnh Cà Mau, L còn có hành vi chửi bới nhằm uy hiếp tinh thần của ông N chiếm đoạt 01 xe mô tô hiệu Wave RSX, biển kiểm soát 69N1-203.60 trị giá 8.800.000 đồng. Với những tình tiết này, Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời đã xét xử các bị cáo L, H và T về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[2] Hnh vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của ông N được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Các bị cáo cưỡng đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật, phạm tội thì phải bị xử lý và chịu hình phạt theo pháp luật hình sự. Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, trong đó, bị cáo L là người giữ vai trò chính, các bị cáo H và T giúp sức cho bị cáo L thực hiện hành vi phạm tội.

[3] Đối với bị cáo H: Quá trình xét xử, cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, gồm: Đã bồi thường thiệt hại cho bị hại; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Phạm tội lần đầu; Bị cáo là người làm công cho bị cáo L, do đó có phần nào đó lệ thuộc vào bị cáo L; Là người giúp sức có vai trò không đáng kể; Bị hại cũng có lỗi; Bị hại đã nhận lại được các tài sản và có đơn xin bãi nại cho bị cáo; Bị cáo có ông ngoại tên Bùi Văn Nhạc là liệt sĩ. Từ đó, xử phạt bị cáo 06 (sáu) tháng tù (mức hình phạt dưới khung) là tương xứng. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị hại kháng cáo xin cho bị cáo được hưởng án treo, bị cáo kháng cáo xin được hưởng mức hình phạt thấp nhất và cùng xác định bị cáo là lao động chính trong gia đình, có hoàn cảnh kinh tế rất khó khăn, phải làm thuê kiếm sống được chính quyền địa phương xác nhận. Tuy nhiên, với tình tiết giảm nhẹ mới này không đủ điều kiện để cho bị cáo được hưởng án treo, nhưng xét thấy bị cáo đã bị tạm giam một thời gian cũng đủ răn đe, cải tạo bị cáo thành người tốt cũng như đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung, nên chấp nhận giảm nhẹ một phần hình phạt tù cho bị cáo với thời hạn bằng với thời gian bị cáo bị tạm giam là phù hợp.

[4] Đối với các bị cáo T: Quá trình xét xử, cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của Hnh vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo gồm: Đã bồi thường cho bị hại; Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Phạm tội lần đầu; Bị cáo là người làm công cho bị cáo L, do đó có phần nào đó lệ thuộc vào bị cáo L; Là người giúp sức có vai trò không đáng kể; Bị hại cũng có lỗi; Bị hại đã nhận lại được các tài sản và có đơn xin bãi nại cho bị cáo; Bị cáo có cha ruột được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Từ đó, xử phạt bị cáo 06 (sáu) tháng tù (mức hình phạt dưới khung) là tương xứng. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị hại kháng cáo xin cho bị cáo được hưởng án treo, bị cáo kháng cáo xin được hưởng mức hình phạt thấp nhất và cùng xác định bị cáo là lao động chính trong gia đình, có hoàn cảnh kinh tế rất khó khăn, phải làm thuê kiếm sống được chính quyền địa phương xác nhận. Tuy nhiên, với tình tiết giảm nhẹ mới này cũng không đủ điều kiện để cho bị cáo được hưởng án treo, nhưng xét thấy bị cáo đã bị tạm giam một thời gian cũng đủ răn đe, cải tạo bị cáo thành người tốt cũng như đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung, nên chấp nhận giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo với thời hạn bằng với thời gian bị cáo bị tạm giam là phù hợp.

[5] Do thời hạn tù bằng với thời hạn tạm giam của các bị cáo, nên trả tự do ngay cho các bị cáo tại phiên tòa nếu các bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác. [6] Với các tình tiết nêu trên, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tại phiên tòa không được chấp nhận, ý kiến của luật sư bào chữa cho các bị cáo được chấp nhận.

[7] Do sửa án sơ thẩm, nên các bị cáo và bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[8] Các phần khác của án sơ thẩm không bị kháng cáo hoặc bị kháng nghị, đã có hiệu lực thi Hnh kể từ khi hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị hại Trần Hoàng N về việc đề nghị cho các bị cáo Nguyễn Văn H và Hứa Văn T được hưởng án treo, chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn H và Hứa Văn T về việc giảm nhẹ hình phạt; Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2022/HS-ST ngày 11 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau về phần hình phạt đối với bị cáo H và T.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 170, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 03 (ba) tháng 07 (bảy) ngày tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù được tính từ ngày 24 tháng 02 năm 2022. Trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác;

- Xử phạt bị cáo Hứa Văn T 03 (ba) tháng 07 (bảy) ngày tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù được tính từ ngày 24 tháng 02 năm 2022. Trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

3. Các bị cáo và bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 76/2022/HS-PT

Số hiệu:76/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về