Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 48/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ – TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 48/2021/HS-ST NGÀY 16/12/2021 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 12 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 43/2021/TLST- HS ngày 04 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Vũ A (tên gọi khác: Mắt to), sinh ngày: 06/5/1993, tại: Lâm Đồng; Nơi cư trú: Thôn 3, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 09/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Trung V, sinh năm 1970 và bà Trần Thị N, sinh năm 1972; Vợ: Trần Thị Thùy L, sinh năm: 1991 (đã ly hôn); Con: có 01 con sinh năm 2013; Tiền sự: Không; Tiền án: Ngày 09/02/2018, Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 02 năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/5/2021 và bị tạm giam từ ngày 07/6/2021. Hiện bị cáo đang bị tam giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ. (Có mặt).

* Bị hại: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1970, địa chỉ: Ấp 2, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (Có mặt)

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng:

1. Anh Trần T, sinh năm: 1991 (Vắng mặt).

2. Anh Vũ D, sinh năm: 1986 (Vắng mặt).

3. Anh Vũ Thanh B, sinh năm: 1995 (Vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Thôn 3, xã K, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

4. Anh Nguyễn Văn M, sinh năm: 1977 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp P, xã T1, huyện P, tỉnh Đồng Nai.

5. Anh Phan Hoàng T2, sinh năm: 1995 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cuối năm 2019, Vũ A chấp hành xong án phạt tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Sau khi về địa phương A không có công việc làm ổn định, không có tiền tiêu xài nên đã nảy sinh ý định tìm những người thu mua sầu riêng trên địa bàn huyện Đ để tìm cách đe dọa với mục đích thu tiền bảo kê. Sau đó, A ra tiệm điện thoại di động của anh Hoàng Văn T3, trú tại: Tổ dân phố B, thị trấn Đ, huyện Đ để mua 01 chiếc điện thoại di động Nokia loại phím bấm và 01 sim rác mạng Vinaphone số 0917.A.320 rồi đi tìm những người cắt sầu riêng ở xã K, huyện Đ. Lúc này, A giả vờ là người có sầu riêng muốn bán để xin số điện thoại của chủ thu mua sầu riêng tại huyện Đ. Sau đó, A đã gặp một người đàn ông cắt sầu riêng và xin được số điện thoại 0335.X.711 của bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1970, trú tại: Ấp 2, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Sau khi xin được số điện thoại của bà T, A đã dùng điện thoại và sim rác mới mua được gọi điện cho bà Tnhiều lần để đe doạ bà T, yêu cầu bà T chung chi tiền bảo kê thu mua sầu riêng tính trên đầu giá 1000 đồng/01 kg sầu riêng nhưng bà T không đồng ý. Sau đó, A đe dọa sẽ phá công việc thu mua sầu riêng của bà T, không cho người của bà T cắt sầu riêng và không cho xe ô tô chở sầu riêng của bà T rời khỏi huyện Đ. A hứa hẹn với bà T nếu bà T chung chi tiền thu mua sầu riêng tính trên đầu giá 1000 đồng/01 kg thì A sẽ đảm bảo cho xe ô tô chở sầu riêng của bà T an toàn rời khỏi huyện Đ. Sau nhiều lần bị A đe dọa, bà T lo sợ công việc thu mua sầu riêng của mình bị phá nên đã đồng ý chung chi tiền cho A. Bà T hẹn A sẽ giao cho A số tiền 20.000.000 đồng tại cây xăng Q thuộc thôn L, xã K, huyện Đ vào trưa ngày 29/5/2021. Đến sáng ngày 29/5/2021, A tiếp tục gọi điện thoại cho bà T để yêu cầu bà T đưa tiền, sau khi bà T đồng ý chung chi tiền bảo kê sầu riêng và hẹn thời gian, địa điểm giao nhận tiền với A tại cây xăng Q. Lúc này, A điều khiển xe máy, nhãn hiệu Sirius màu trắng-đen, biển kiểm soát 78H1–Y.39 chở Trần T đi chơi. Sau đó, cả hai vào quán nước ở thôn M, xã K để ngồi uống nước chờ bà T từ huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai lên để giao tiền. Trong lúc ngồi uống nước thì A tiếp tục gọi điện để hỏi bà T đã đến Đ chưa. Khi bà T trả lời sắp đến Đ thì A tắt nguồn điện thoại Nokia có sim rác mạng Vinaphone rồi mang về nhà mẹ ruột là bà Trần Thị N, trú tại: Tổ dân phố A, thị trấn Đ để cất trong nhà bà N rồi chở Trần T quay lại cây xăng Q để nhận tiền của bà T. Khi đến nơi, Trần T ngồi trên xe máy, còn A đi ra xe ô tô 7 chỗ, biển kiểm soát 60A–N.06 để nhận tiền của bà T, khi A mới nhận được số tiền 15.000.000 đồng từ bà Tthì bị Công an huyện Đ bắt quả tang cùng tang vật đưa về làm việc. Tại Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Vũ A đã thừa nhận hành vi cưỡng đoạt tài sản như đã nêu trên.

Bị hại là: bà Nguyễn Thị T bị Vũ A cưỡng đoạt số tiền 20.000.000 đồng Tại bản cáo trạng số 41/CT-VKSĐT ngày 04/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Vũ A về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Vũ A từ 24 (Hai mươi bốn) tháng đến 30 (Ba mươi) tháng tù.

Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ còn đề nghị xử lý về vật chứng và án phí theo quy định.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bản thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định tội: Lời khai nhận của bị cáo Vũ A tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị hại cũng như phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên tòa về thời gian, địa điểm, loại tài sản, giá trị tài sản. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vũ A là đối tượng không có việc làm ổn định, muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên đã nảy sinh ý định đe dọa người thu mua sầu riêng để thu tiền bảo kê. Để thực hiện hành vi trên, A đã mua 01 chiếc điện thoại di động và 01 sim rác, sau đó, A đi tìm và xin được số điện thoại của bà Nguyễn Thị T là người thu mua sầu riêng ở xã K, huyện Đ.

Sau khi xin được số điện thoại, A đã nhiều lần gọi điện thoại đe doạ, yêu cầu bà T chung chi tiền bảo kê thu mua sầu riêng tính trên đầu giá 1000 đồng/01 kg sầu riêng. Nếu bà T không đồng ý sẽ phá công việc thu mua sầu riêng, không cho cắt và không cho xe ô tô chở sầu riêng của bà T rời khỏi huyện Đ. Do lo sợ bị phá việc thu mua sầu riêng nên bà T đã đồng ý chung chi tiền và hẹn sẽ giao cho A số tiền 20.000.000 đồng tại cây xăng Q ở Thôn A, xã K, huyện Đ vào trưa ngày 29/5/2021. Đến khoảng 12 giờ 45 phút cùng ngày, bà T đưa cho A số tiền 15.000.000 đồng và tiếp tục đếm 5.000.000 đồng để đưa cho A thì bị Công an huyện Đ bắt quả tang.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi liên tiếp gọi điện thoại và uy hiếp tinh thần nhằm chiếm đoạt tài sản trái phép mà bị cáo đã cố ý thực hiện là hành vi vi phạm pháp luật, hành vi đó đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và nếp sống văn minh tại địa phương. Ngoài ra, bị cáo có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xoá án tích nhưng lại tiếp tục phạm tội. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cần có một hình phạt tương xứng với hành vi mà bị cáo thực hiện, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân tốt góp phần phòng ngừa tội phạm trong đời sống cộng đồng. Tuy nhiên khi lượng khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo, vì: Mặc dù trong quá trình điều tra bị cáo chưa thành khẩn khai báo, tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, tài sản bị cưỡng đoạt cũng đã được thu hồi toàn bộ để trả lại bị hại và tại phiên tòa hôm nay bị hại cũng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.

[4] Ngoài ra, trong vụ án này khi bị cáo đến gặp và chiếm đoạt tiền của bà T và bị bắt quả tang vào ngày 29/5/2021 còn có anh Trần T đi cùng với bị cáo. Tuy nhiên, qua điều tra, xác minh, củng cố tài liệu chứng cứ, xác định anh T không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, việc bị cáo nảy sinh ý định thực hiện hành vi phạm tội thì bị cáo không bàn bạc với anh T mà chỉ thực hiện một mình. Bị cáo chỉ rủ anh T chỉ đi chơi cùng và anh T không biết bị cáo đi chiếm đoạt tiền của bà T. Vì vậy, Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xử lý anh T về việc đồng phạm với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay bị hại bà Nguyễn Thị T không yêu cầu bị cáo bồi thường. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét. [6] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với số tiền 15.000.000 đồng mà bị cáo đã nhận của bị hại là bà Nguyễn Thị T khi bị bắt quả tang. Xét thấy đây là tài sản hợp pháp của bà T cần trả lại cho bà T là phù hợp.

- Đối với số tiền 210.000 đồng thu giữ trong người của bị cáo khi bắt quả tang. Quá trình điều tra cũng như xét hỏi tại phiên tòa thấy rằng đây là số tiền của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội, được hoàn trả lại cho bị cáo. Tuy nhiên cần giữ lại để đảm bảo cho việc thi hành án.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, màu sơn trắng-đen, biển kiểm soát 78H1 - Y.39 là phương tiện mà bị cáo sử dụng vào ngày 29/5/2021. Quá trình điều tra, xác minh chiếc xe mô tô trên là của anh Vũ Thanh B, sinh năm 1995, trú tại: Tổ dân phố C, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vào sáng 29/5/2021, bị cáo mượn xe mô tô của anh Bình nhưng không biết bị cáo mượn xe để đi đâu, làm gì. Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ đã trả lại xe mô tô cho anh Bình nên Hội đồng xét xử không xem xét lại nữa.

- Đối với 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Redmi Note 7, vỏ màu xanh tạm giữ trên người của Trần T. Quá trình điều tra xác định Trần T không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên Cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại cho Trần T là phù hợp.

- Đối với điện thoại Iphone 8 Plus tạm giữ trên người bị cáo, qua làm việc bị cáo khai nhận chiếc điện thoại này mượn của bạn tên gọi là T3 nhà ở xã T4, huyện Đ. Tuy nhiên, bị cáo không xác định được nhân thân lai lịch cụ thể của T3, không biết T3 bao nhiêu tuổi, nhà ở đâu và mật khẩu điện thoại bị cáo cũng không biết. Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ chiếc điện thoại Iphone 8 Plus để điều tra, xác minh xử lý theo quy định là phù hợp.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo Vũ A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Vũ A (tên gọi khác: Mắt to) phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Vũ A 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29 tháng 5 năm 2021.

2. Về vật chứng của vụ án:

Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Trả lại số tiền 15.000.000 đồng cho bà Nguyễn Thị T.

- Trả lại cho bị cáo số tiền 210.000 đồng nhưng tiếp tục tạm giữ đảm bảo cho việc thi hành án.

(Số tiền trên đã được chuyển từ tài khoản tạm giữ của Công an huyện Đ tại Kho bạc nhà nước sang tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ theo Giấy ủy nhiệm chi ngày 19/11/2021.)

3. Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Vũ A phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo và bị hại có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 48/2021/HS-ST

Số hiệu:48/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Trọng - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về