Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 114/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 114/2021/HS-ST NGÀY 13/04/2021 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 13/4/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 515/2020/TLST-HS ngày 14/12/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 105/2021/QĐXXST-HS ngày 29/3/2021 đối với bị cáo: NGUYỄN THỊ THU H, sinh năm 1970; ĐKNKTT: Số nhà 381 phố Trần Huy Liệu, phường MV, thành phố Đ, tỉnh Nam Định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/10; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Như Q và bà Đỗ Thị H; tình trạng hôn nhân: Đã ly hôn chồng là Trần Ngọc V; có 03 con, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Chưa; bị cáo bị bắt và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/4/2020; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 01 của Công an Thành phố Hà Nội. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo : Bà Lê Thị Tuyết M, Luật sư thuộc Công ty luật V- Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội. Có mặt.

Bị hại : Anh Phạm Toàn T, sinh năm 1971; ĐKNKTT: Số nhà 16 ngõ 301 phố HP, phường PT, quận HM, Thành phố Hà Nội; trú tại: Số 06, ngõ 12/02 phố BC, phường QT, quận ĐA, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

Người làm chứng:

1. Chị Vũ Thị NG, sinh năm 1976; trú tại: Số 110H, Ô 17, phường LH, thành phố Đ, tỉnh Nam Định. Vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1968; trú tại: Số nhà 201/48/16 đường NX, phường 26, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt.

3. Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1968; trú tại: Số nhà 02 ngõ 203 phố HP, phường PT, quận HM, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Năm 2002, anh Phạm Toàn T quen biết, quan hệ tình cảm và chung sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Thu H và có 01 con chung là cháu Phạm Tiến Đ, sinh năm 2004. Năm 2007, do làm ăn thua lỗ nên cả hai người đã bán toàn bộ tài sản chung để trả nợ và chia tay nhau; 02 người không còn có ràng buộc gì về kinh tế; anh T nuôi dưỡng cháu Phạm Tiến Đ. Năm 2014, biết H gặp khó khăn về kinh tế nên anh T đã mua cho H căn nhà tại số 381 phố Trần Huy Liệu, phường MV, thành phố Đ, tỉnh Nam Định để H sinh sống và kinh doanh. Đến cuối tháng 5/2019, do kinh doanh thua lỗ nên H vay nợ nhiều đối tượng ở thành phố Đ và thường xuyên bị các đối tượng cho vay đòi nợ. H đã liên lạc và đề nghị anh T đưa cho H số tiền 2.500.000.000 đồng để trả nợ nhưng anh T không đồng ý. Do không đạt được mục đích nên H đã dùng nhiều cách gây áp lực, ép anh T cho tiền, như: Gọi điện, nhắn tin trực tiếp để chửi bới, xúc phạm anh T; gọi điện thoại cho cháu Đ chửi bới và đe dọa tạt axit anh T. Trong các ngày 26, 27 và 29/12/2019; 09/01/2020; 05, 06 và 10/3/2020, H đã sử dụng tài khoản Facebook “N” và “N” để đăng tải 07 bài viết có hình ảnh, thông tin cá nhân, cuộc sống của anh T, cùng các thông tin sai sự thật, vu khống, bôi nhọ danh dự nhân phẩm anh T; đồng thời gắn thẻ tên bạn bè, người thân của anh T để mọi người đọc được. Ngày 26/12/2019, H tự ý chuyển đồ đạc cá nhân vào nhà con gái anh T là Phạm Thị Ph (Sinh năm 1991; trú tại số nhà 11, ngõ 203, đường PH, phường PT, quận HM) để ăn ở, không chịu ra để gây sức ép với anh T. Trong 02 ngày 09/01/2020 và 18/01/2020, H đến Công ty TNHH Smart Door 168 do anh T làm Giám đốc, có trụ sở tại số 172 phố P, phường L, quận XT và đến nhà của anh T tại số 06, ngõ 12/2, phố BC, phường QT, quận ĐA, Thành phố Hà Nội để chửi bới, gây rối, tạo sức ép, yêu cầu anh T phải đưa tiền.

Bức xúc trước việc làm trên của Nguyễn Thị Thu H nên ngày 06/01/2020, anh T đã làm đơn tố giác hành vi vi phạm pháp luật của H đến Công an quận HM. Ngày 12/3/2020, Công an quận HM đã mời H về trụ sở làm việc; H thừa nhận không có nợ nần gì với anh T, được anh T nhiều lần cho tiền để trả nợ và làm ăn; do nợ nần nhiều nên phải dùng các thủ đoạn trên để gây sức ép buộc anh T phải đưa tiền; H cam kết không tái diễn các hành vi vi phạm pháp luật, không đăng tải các thông tin cá nhân của anh T, không chửi bới xúc phạm danh dự nhân phẩm anh T nên Công an quận HM đã cho H về. Tuy nhiên, trong các ngày 21/4/2020 và 22/4/2020, H tiếp tục sử dụng tài khoản Facebook “S” và “N” đăng tải 02 bài viết có nội dung là các thông tin cá nhân của anh T lên mạng xã hội; tiếp tục có hành vi chửi bới, lăng mạ anh T nhằm mục đích tạo sức ép từ dư luận buộc anh T phải đưa tiền. Do sợ bị ảnh hưởng đến gia đình và công việc làm ăn nên ngày 22/4/2020, anh T nhờ người quen là chị Vũ Thị NG gọi điện thoại cho H đề nghị gỡ các bài viết xuống. H yêu cầu anh T phải đưa số tiền 2.500.000.000 đồng mới chịu gỡ bài. Anh T thấy H yêu cầu số tiền lớn nên không đồng ý và đề nghị giảm mức tiền xuống nhưng H không đồng ý. Sau nhiều lần thỏa thuận, H đã đồng ý nhận số tiền 2.000.000.000 đồng và cam kết sẽ chấm dứt làm phiền, không chửi bới, lăng mạ anh T trên mạng xã hội và nơi ở nữa. Khoảng 11 giờ ngày 23/4/2020, H hẹn gặp anh T ở quán cafe tại số 07 đường Thanh Niên, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình để nói chuyện. H rủ chị Vũ Thị NG và chị Nguyễn Thị Thanh H; còn anh T rủ anh Nguyễn Văn L (Là bạn quen biết với cả 02) đi cùng đến quán cafe. Tại đây, anh T cho biết do dịch bệnh nên công việc làm ăn không hoạt động được, chỉ đồng ý đưa cho H 1.500.000.000 đồng; nhưng H yêu cầu anh T phải đưa đủ 2.000.000.000 đồng, nếu không đưa đủ sẽ không dừng lại các việc đang làm. Thấy thái độ của H như vậy, anh T đồng ý giao tiền nhưng chỉ đưa trước 485.000.000 đồng, số tiền còn lại hẹn sẽ đưa sau 20 ngày và yêu cầu H phải viết giấy cam kết không đăng bài lên các mạng xã hội, không đòi nợ, không đe dọa, không làm phiền anh T và không còn gì liên quan đến nhau nữa. Sau khi viết giấy cam đoan, H cùng anh T và mọi người đến Ngân hàng Techcombank - Chi nhánh Hà Nội tại số 15 phố Đào Duy Từ, phường BH, quận HM để anh T rút tiền đưa cho H. Khi Hà nhận số tiền 485.000.000 đồng và đang làm thủ tục chuyển tiền vào tài khoản của mình thì bị Công an quận HM bắt quả tang; thu giữ vật chứng gồm: Thu giữ tài liệu do chị Nguyễn Thị Thúy Hồng, là Giao dịch viên Techcombank giao nộp gồm: 01 giấy chuyển tiền nhanh tên khách hàng Nguyễn Thị Thu H, số chứng minh thư nhân dân 0331716000xxxx, số tiền giao dịch 450.000.000 đồng; 01 giấy lĩnh tiền tại Techcombank tên tài khoản Phạm Toàn T, số tài khoản 1902864294xxxx và 485.000.000 đồng. Thu giữ của chị Vũ Thị NG 01 giấy cam kết đề ngày 23/4/2020 có chữ ký của Nguyễn Thị Thu H, mặt sau có ghi số tài khoản 03006287xxxx của Nguyễn Thị Thu H; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A50 màu trắng. Thu giữ của Nguyễn Thị Thu H 01 chiếc điện thoại di động Samsung GalaxyA7 màu đen đã vỡ kính ốp màn hình; 01 chiếc điện thoại di động Oppo A31 màu đen, kèm theo sim số 096150xxxx và 094583xxxx. Thu giữ của anh Phạm Toàn T 01 USB chứa 1 file ghi âm, 06 đoạn clip thể hiện Nguyễn Thị Thu H chửi và đe dọa anh T và gia đình.

Ngày 04/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận HM đã quyết định xử lý vật chứng: Trao trả số tiền 485.000.000 đồng cho anh Phạm Toàn T; trả cho cho Vũ Thị NG điện thoại di động Samsung Galaxy A50 màu trắng.

Tại Bản kết luận giám định số 8321/KLGĐ-PC09 ngày 22/09/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: “... Chữ viết phần nội dung, chữ ký, chữ viết dòng họ tên Nguyễn Thị Thu H (dưới chữ ký) trên mẫu cần giám định ký hiệu A với chữ viết, chữ ký đứng tên Nguyễn Thị Thu H trên mẫu so sánh ký hiệu M1 (mẫu bản tường trình của Hà) là chữ do cùng một người viết và ký ra. Chữ ký, chữ viết dòng họ tên Nguyễn Thị Thanh H, Nguyễn Văn L, Vũ Thị NG (dưới chữ ký) mục "Người chứng kiến" trên mẫu cần giám định ký hiệu A với chữ ký, chữ viết trên các mẫu so sánh tương ứng ký hiệu từ M2 đến M7 (bản tường trình của các của anh Lốc, chị Huyền, chị Ngà) đứng tên Nguyễn Thị Thanh H, Nguyễn Văn L, Vũ Thị NG là chữ do cùng một người ký và viết ra”.

Tại bản kết luận giám định số 6452/LKGĐ-C09(P4) ngày 27/10/2020 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: “… Không phát hiện dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung âm thanh và hình ảnh trong mẫu cần giám định. Không giám định được tiếng nói của anh Phạm Tiến Đạt (con chung của anh Thắng và Nguyễn Thị Thu H) do mẫu cần giám định có chất lượng kém không phù hợp với mẫu so sánh. Tiếng nói của người nói giọng nữ xưng “tao” (ký hiệu “Hà” trong Bản dịch nội dung ghi âm mẫu cần giám định) và tiếng nói của chị Nguyễn Thị Thu H trong mẫu so sánh là của cùng một người nói. Nội dung mẫu cần giám định đã được chuyển thành văn bản. Kèm theo kết luận giám định có 01 bản dịch nội dung ghi âm mẫu cần giám định gồm 08 trang giấy khổ A4”.

Kết quả điều tra xác định trong các ngày 26, 27, 29/12/2019; 09/01/2020;

05, 06 và 10/3/2020, Nguyễn Thị Thu H đã sử dụng tài khoản Facebook “N” và “N” để đăng tải 07 bài viết có hình ảnh, thông tin cá nhân, cuộc sống của anh Phạm Toàn T; đưa các thông tin sai sự thật, vu khống, bôi nhọ danh dự nhân phẩm anh T; đồng thời gắn tên bạn bè, người thân của anh T. Sau đó, trong các ngày 21/4 và 22/4/2020, H lại tiếp tục sử dụng tài khoản Facebook “S” và “N” đăng tải 02 bài viết có nội dung là các thông tin cá nhân của anh T lên mạng xã hội; tiếp tục có hành vi chửi bới, lăng mạ anh T. Xét thấy, đây là thủ đoạn nhằm uy hiếp tinh thần, tạo sức ép để buộc anh T phải đưa tiền. Do anh T có đơn đề nghị không xử lý hình đối với H về tội “Làm nhục người khác” nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý hình sự. Ngày 15/11/2020, Phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố Hà Nội đã quyết định xử phạt vi phạm hành chính 15.000.000 đồng đối với Nguyễn Thị Thu H về hành vi “Lợi dụng mạng xã hội để cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của cá nhân”.

Đối với chị Nguyễn Thị NG và chị Nguyễn Thị Thanh H: Chị NG là người được anh T nhờ đàm phán với Nguyễn Thị Thu H để gỡ bài đăng về anh T; chị NG không hỗ trợ hay giúp sức gì cho H trong việc ép buộc yêu cầu anh T trả tiền; chị H không biết việc H đăng tải thông tin gì về anh T; không hỗ trợ, kích động H trong việc yêu cầu anh T đưa tiền nên không đồng phạm với H nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Căn cứ các tài liệu kiểm tra điện thoại, tin nhắn qua Facebook của Nguyễn Thị Thu H cho thấy có đối tượng sử dụng tài khoản Facebook “Đ” đã tư vấn cho H trong việc viết giấy đưa nhận số tiền 2.000.000.000 đồng từ anh Phạm Toàn T. H khai có biết ông Đỗ Minh T (Sinh năm 1967; trú tại: Thôn Yên Xá, xã T, huyện TX, Thành phố Hà Nội, là Trưởng Phòng Kinh tế - Xã hội của Báo Pháp luật & Xã hội) từ năm 2019 do là người cùng quê Hưng Yên. Đầu năm 2020, thông qua mạng xã hội Facebook, H tìm và kết bạn với tài khoản “Đ” rồi kể chuyện về mối quan hệ với anh T, hỏi tư vấn về mâu thuẫn giữa anh T và H nhưng chỉ nhắn tin qua ứng dụng Messenger mà không gọi điện thoại hay gặp mặt ông T. Cơ quan điều tra đã mời ông Đỗ Minh T để xác minh nội dung trên; ông T khẳng định không quen biết với H và không nhắn tin tư vấn xúi giục H cưỡng đoạt tài sản của anh T. Tài khoản đã nhắn tin với H qua mạng xã hội Facebook có thể là một trong số những tài khoản ảo do các đối tượng xấu ở trên mạng xã hội Facebook lấy thông tin cá nhân của ông T lập lên với mục đích xấu. Đã kiểm tra điện thoại của ông T không phát hiện danh bạ, lịch sử cuộc gọi, tin nhắn có liên lạc hay lưu thông tin các số điện thoại của H; kiểm tra tài khoản Facebook của ông T mang tên Đỗ Minh T không thấy kết bạn và không có nội dung tin nhắn với tài khoản nào mang tên “N”. Như vậy, không đủ căn cứ xác định ông Đỗ Minh T là người sử dụng tài khoản Facebook “Đ” xúi giục, giúp sức cho Nguyễn Thị Thu H cưỡng đoạt tài sản của anh T. Cơ quan điều tra đã quyết định tách các tài liệu liên quan đến tài khoản mạng xã hội Facebook “Đ” để tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

Cáo trạng số 498/CT-VKS-P2 ngày 27/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu H về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 170 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận hành vi như nội dung cáo trạng đã nêu nhưng cho rằng việc anh T đưa tiền cho bị cáo là có sự thỏa thuận của 02 người; bị cáo chỉ lấy lại những gì trước đây đã đưa cho anh T; do thiếu hiểu biết và quá bức xúc nên bị cáo đã phạm sai lầm nên đề nghị được xem xét giảm nhẹ hình phạt. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và sau khi đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi; nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 170; Điều 38; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Thị Thu H từ 12 đến 13 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”; tịch thu, sung công 02 chiếc điện thoại di động đã thu giữ của bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, đánh giá nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh dẫn tới hành vi vi phạm; xác định lại số tiền chiếm đoạt để định khung hình phạt cho đúng; bị cáo phạm tội do thiếu hiểu biết và quá bức xúc; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; nhất thời phạm tội lần đầu; thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải; có hoàn cảnh kinh tế và gia đình khó khăn; đề nghị áp dụng các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo đến 07 năm tù cũng là quá nghiêm khắc.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đối với bị cáo, các Cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trình tự, thủ tục, thẩm quyền; không ai có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì.

[2] Về nội dung: Căn cứ lời khai của bị cáo; lời khai của bị hại; lời khai của những người liên quan, Người làm chứng; các biên bản kiểm tra và trích xuất điện thoại; căn cứ các tang vật chứng đã thu giữ; các Bản kết luận giám định; và các tài liệu, chứng cứ chứng minh khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy: Khoảng thời gian năm 2002, anh Phạm Toàn T có quan hệ tình cảm và chung sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Thu H và có 01 con chung sinh năm 2004. Đến khoảng năm 2009, hai người chia tay nhau, anh T nuôi dưỡng con chung. Đến khoảng cuối tháng 5/2019, H đã đề nghị anh T giúp đỡ số tiền 2.500.000.000 đồng để trang trải nợ nần nhưng anh T không đồng ý. H đã sử dụng nhiều cách để gây áp lực, ép buộc anh T như: Gọi điện, nhắn tin cho anh T và cháu Đ để chửi bới, xúc phạm, đe dọa tạt axit anh T. Trong các ngày 26, 27 và 29/12/2019; ngày 09/01/2020; ngày 05, 06 và 10/3/2020, H đã sử dụng tài khoản Facebook “N” “N” để đăng tải 07 bài viết có hình ảnh, thông tin cá nhân, cuộc sống, công việc của anh T cùng các thông tin sai sự thật, vu khống, bôi nhọ danh dự nhân phẩm anh T; đồng thời, gắn thẻ tên bạn bè, người thân của anh T vào bài viết để mọi người đọc được. Ngày 26/12/2019, H tự ý chuyển đồ đạc cá nhân vào nhà con gái anh T là chị Phạm Thị P ăn ở, không chịu ra để gây sức ép với anh T. Ngày 09 và ngày 18/01/2020, H đến trụ sở Công ty và nhà riêng của anh T để chửi bới, lăng mạ, gây sức ép… Ngày 21/4/2020 và 22/4/2020, H tiếp tục sử dụng tài khoản Facebook “S” “N” đăng tải 02 bài viết có nội dung là các thông tin cá nhân của anh T lên mạng xã hội; tiếp tục có hành vi chửi bới, lăng mạ anh T nhằm mục đích ép anh T đưa tiền. Do liên tục bị đe dọa, ép buộc và sợ ảnh hưởng đến gia đình và công việc kinh doanh nên anh T buộc phải đồng ý đưa cho Hà 2.000.000.000 đồng, sẽ đưa trước 485.000.000 đồng. Khoảng 11 giờ ngày 23/4/2020, tại Ngân hàng Techcombank - Chi nhánh Hà Nội, số 15, phố Đào Duy Từ, phường BH, quận HM, Hà Nội, khi H vừa nhận số tiền 485.000.000 đồng của anh T thì bị phát hiện, bắt giữ.

Hành vi trên của Nguyễn Thị Thu H đã phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” với tình tiết tăng nặng định khung “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 500.000.000 đồng trở lên” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 170 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội đã viện dẫn để truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi; nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi của Nguyễn Thị Thu H là nghiêm trọng; nhận thức rõ hành vi đó là sai trái, vi phạm pháp luật; hành vi đó chẳng những xâm phạm quyền sở hữu tài sản, đe dọa tinh thần của người khác mà còn gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội nghiêm trọng tại địa phương; gây hoang mang lo lắng trong nhân dân. Vì vậy, cần thiết phải áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc, tương xứng tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi; nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo; nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo và có tác dụng đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm nói chung. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả cho bị hại; về nhân thân, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; nhất thời phạm tội lần đầu. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; trên cơ sở đó Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là thỏa đáng.

[4] Về các biện pháp tư pháp: Anh Phạm Toàn T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xét. Đối với 02 chiếc điện thoại di động đã thu giữ được bị cáo sử dụng làm phương tiện, công cụ phạm tội hoặc có liên quan đến tội phạm nên tịch thu, sung công quỹ Nhà nước.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án thì bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ những nhận đinh trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu H phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 170; Điều 38; điểm h, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Thị Thu H 10 (Mười) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/4/2020.

3. Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ các Điều 47; Điều 48 của Bộ luật Hình sự: Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động màu đen kiểu Samsung, số Imei 1: 353465101225751, số Imei 2: 353466101225759, đã qua sử dụng, bị vỡ kính ốp màn hình; 01 chiếc điện thoại di động màu đen kiểu Oppo, số Imei 1: 860646041612176, số Imei 2: 860646041612168, kèm theo 02 sim; cả 02 điện thoại không kiểm tra được chất lượng và tình trạng hoạt động.

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Thành phố Hà Nội và Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hà Nội ngày 03/3/2021)

4. Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Thị Thu H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

40
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 114/2021/HS-ST

Số hiệu:114/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về