Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 67/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 67/2023/HS-ST NGÀY 06/09/2023 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 61/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2023/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2023 đối với các bị cáo:

1/Họ và tên: Trần Văn D, sinh ngày 03 tháng 3 năm 1993 tại huyện D, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: xóm 2, xã M, huyện D, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn N và con bà Nguyễn Thị H; bị cáo có vợ và có 01 con; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26/5/2023. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình theo Quyết định tạm giam số 35/2023/HSST-QĐTG ngày 25/7/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình (Có mặt).

2/Họ và tên: Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 04 tháng 6 năm 1998 tại thành phố T, tỉnh Ninh Bình; Nơi cư trú: thôn H, xã Q, thành phố T, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa 12/12; dân tộc: Mường; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S và con bà Nguyễn Thị A; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26/5/2023. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình theo Quyết định tạm giam số 36/2023/HSST-QĐTG ngày 25/7/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình (Có mặt).

2. Bị hại:

+ Bà Phạm Thị B, sinh năm 1956; Địa chỉ: khối T, xã H, thị xã Th, tỉnh Nghệ An (vắng mặt).

+ Ông Phan Văn Ch, sinh năm 1977; Địa chỉ: khối T, phường V, thành phố V, tỉnh Nghệ An (vắng mặt).

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Trần H, sinh năm 1997; Địa chỉ: tổ 11, phường Tr, thành phố T, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).

3. Người làm chứng: Ông Thái Văn Th, sinh năm 1976; (vắng mặt) Anh Phan Văn H, sinh năm 1986; (vắng mặt) Anh Phan Văn C, sinh năm 1997; (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Xe ô tô trở khách BKS 37B-022.xx của nhà xe “H” chạy tuyến Nghệ An - Hà Nội do bà Phạm Thị B là chủ và xe ô tô khách BKS 37F-002.xx của nhà xe T chạy tuyến Nghệ An - Bắc Ninh do anh Phan Văn Ch là chủ, trên đường trở khách về Nghệ An thường xuyên dừng nghỉ tại nhà hàng Th 35 có địa chỉ tại tổ 21, phường N, thành phố T do Trần Văn D là chủ để khách ăn uống, vệ sinh cá nhân. Khi các xe ô tô của hai nhà xe trên dừng nghỉ, ăn uống, D chỉ thu tiền ăn uống của khách còn các lái xe sẽ được ăn uống miễn phí. Đến tháng 01/2023, hành khách trên các xe phản ánh nhà vệ sinh của nhà hàng Th 35 không sạch sẽ nên các lái xe của nhà xe H và T không dừng nghỉ tại nhà hành Th 35 nữa. Do bực tức nên D nảy sinh ý định ném đá vào xe ô tô của các nhà xe trên cho bõ tức. D đã rủ Nguyễn Tuấn A hay gọi là “Tuấn Oi” là nhân viên làm ở nhà hàng của D cùng đi ném đá vào xe ô tô khách của nhà xe H và T, Tuấn A đồng ý. Từ ngày 07/02/2023 đến ngày 03/03/2023 D và Tuấn A đã 3 lần dùng đá ném vào xe ô tô biển kiểm soát 37B – 022.xx của nhà xe H và xe ô tô biển kiểm soát 37F – 002.xx của nhà xe T làm vỡ kính chắn gió, hư hỏng các xe ô tô. Cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 19 giờ ngày 07/02/2023 Trần Văn D sử dụng điện thoại di động Iphone 11 Pro Max bên trong lắp sim số 08181811xx gọi điện vào điện thoại di động Oppo A5S lắp sim số 0363688xxx của Nguyễn Tuấn A nói với Tuấn A: “mày ra quán nhà anh có tý việc”. Nghe xong điện của D, Tuấn A điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX biển kiểm soát 35B2-374.xx (xe mượn của anh Trần H) đi từ nhà đến nhà hàng Th 35, đến nơi Tuấn A dựng xe ở ngoài sân và đi vào nhà gặp D, D nói với Tuấn A: “Xe T và Hi không vào quán ăn nữa, khi không có khách chúng nó ăn uống miễn phí, giờ xe nó đông khách nó lại bỏ mình, mày cùng anh ném mấy xe này cho tao đỡ cay chúng nó, tối nay xe của chúng nó đi về Nghệ An qua đây, anh với mày đi ném đá vào kính xe chúng nó, anh đứng ở trước cổng nhà máy gạch Tam Điệp, mày đứng ở đầu đường 207, chặn đầu, chuẩn bị đá, anh thấy xe của nó đến thì anh sẽ báo cho mày để mày ném đá vào kính xe H. Sau khi ném xong thì mày đến đón anh rồi chở anh đến chân cầu vượt hướng Nghệ An - Ninh Bình, còn mày đến đến đoạn đường bên cạnh cầu vượt hướng Ninh Bình - Nghệ An tiếp tục ném đá vào kính xe T” nghe vậy thì Tuấn A nói: “vâng anh”. Khoảng 22 giờ cùng ngày Tuấn A điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 35B2-374.xx trở Trần Văn D từ nhà hàng Th 35 đến trước cồng nhà máy gạch Tam Điệp thuộc tổ 19, phường N, thành phố T, D xuống xe đứng trên vỉa hè giáp quốc lộ 1A hướng Nghệ An – Ninh Bình chờ xe ô tô của nhà xe H đi qua để báo cho Tuấn A biết. Sau khi D xuống xe, Nguyễn Tuấn A điều khiển xe mô tô qua đường Quốc lộ 1A đi về hướng Nghệ An đến gần khu vực ngã ba giao nhau giữa đường Quốc lộ 1A với đường Ng (đường 207), thuộc tổ 21, phường N, thành phố T, Ninh Bình, thì Tuấn A xuống xe dựng trong ngõ nhỏ của đường Ng và nhặt một viên đá ở ven đường, đứng chờ xe ô tô H chạy qua. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày Trần Văn D đứng trên vỉa hè nhìn ra phía đường Quốc lộ 1A hướng Ninh Binh thấy xe ô tô khách nhãn hiệu THACO, loại 44 chỗ biển kiểm soát 37B – 022.xx, phía trước đầu xe có dòng chữ H chạy bằng đèn led, biết là xe của nhà xe “H” do anh Phan Văn H, trú tại số 269 , xã H, thị xã Th, tỉnh Nghệ An điều khiển đang chở khách đi hướng Ninh Bình - Nghệ An, D lấy điện thoại di động gọi cho Tuấn A, D nói “Xe H nó đến đấy, có chữ H chạy ở phía trên đầu trước của xe”, rồi tắt máy. Tuấn A, nghe điện của D thì biết xe ô tô của nhà xe H sắp đến, nên nhìn ra đường Quốc lộ 1A hướng về hướng Ninh Bình thì thấy xe ô tô ô tô nhãn hiệu THACO, loại 44 chỗ biển kiểm soát 37B – 022.xx chạy hướng Ninh Bình - Nghệ An, phía trước đầu xe có dòng chữ H chạy bằng đèn led thì biết là xe của nhà xe H. Tuấn A lấy viên đá nhặt ở đường lúc trước cầm ở tay trái, khi xe ô tô BKS 37B - 022.xx do anh H điều khiển đi đến gần vị trí của Tuấn A, thành xe bên phụ cách Tuấn A khoảng 4m thì Tuấn A ném viên đá về phía xe, viên đá trúng vào tấm kính chắn gió số 4 bên phụ (tính từ đầu xe xuống), làm cho tấm kính bị thủng, phần còn lại của tấm kính bị rạn vỡ, viên đá rơi vào trong sàn xe, một số mảnh kính vỡ rơi xuống đường Quốc lộ 1A, một số mảnh kính vỡ rơi vào trong sàn xe. Sau khi ném đá làm vỡ ô kính số 4 của xe ô tô BKS 37B - 022.xx, Tuấn A điều khiển xe mô tô bỏ đi. Anh Phan Văn H, đang điều khiển xe thấy ô kính số 4 bị ném vỡ nên dừng lại đi xuống kiểm tra, nhưng không nhìn thấy người trực tiếp ném đá và hành khách trên xe không ai bị thương nên tiếp tục điều khiển xe về Nghệ An, trên đường về anh H ném viên đá mà Tuấn A ném vào ô kính số 4 xuống đường.

Lần thứ 2: Khoảng 22 giờ 40 phút ngày 07/2/2023, sau khi ném vỡ kính xe ô tô biển kiểm soát 37B - 022.xx của nhà xe H, Nguyễn Tuấn A điều khiển mô tô quay lại khu vực cổng nhà máy gạch Tam Điệp trở D theo đường Quốc lộ 1A qua cầu vượt đến đầu ngõ 753, thuộc tổ 2, phường N, thành phố T thì dừng xe, D xuống xe đứng trên vỉa hè quốc lộ 1A, ngay đầu ngõ, quan sát chờ xe ô tô của nhà xe T đến báo cho Tuấn A còn Tuấn A điều khiển xe mô tô sang đường đi về phía Nghệ An, dừng lại trên phần đường Quốc lộ 1A gần lan can cầu vượt phía bên phải đường hướng Ninh Bình - Nghệ An thuộc khu vực tổ 5, phường N, thành phố T (ngay sát chân cầu vượt). Tuấn A nhặt 01 viên đá trên bề mặt bám dính xi măng và 01 viên đá chờ D báo tin thì sẽ dùng để ném vào xe ô tô của nhà xe T. Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày D quan sát thấy xe ô tô nhãn hiệu THACO, loại 34 chỗ, biển kiểm soát 37F – 002.xx phía đầu xe có dòng chữ T chạy bằng đèn led do anh Thái Văn Th, trú tại xóm H, xã H, huyện Đ, tỉnh Nghệ An điều khiển đi đến khu vực cầu vượt hướng Ninh Bình – Nghệ An, D điện thoại cho Tuấn A nói: “Xe T đến cầu vượt rồi”, nghe vậy Tuấn A cầm 2 viên đá vừa nhặt nhìn ra đường Quốc lộ 1A về phía cầu vượt thì thấy có xe ô tô nhãn hiệu THACO, loại 34 chỗ, biển kiểm soát 37F – 002.xx đang đi hướng Ninh Bình – Nghệ An, phía đầu xe có dòng chữ T bằng đèn led đi đến, khi đầu xe ô tô bên phụ đi qua vị trí Tuấn A đứng thì Tuấn A ném viên đá bám dính xi măng đang cầm trên tay trái trúng vào tấm kính chắn gió số 3 bên phụ (tính từ đầu xe) làm tấm kính chắn gió này bị thủng, phần còn lại của tấm kính bị rạn vỡ, viên đá bám dính xi măng lọt vào trong xe ô tô. Bị ném vỡ kính, anh Th, giảm tốc độ điều khiển xe dừng lại ở mép đường bên phải để kiểm tra. Lúc này Tuấn A điều khiển xe mô tô theo hướng Ninh Bình - Nghệ An đi qua nơi vị trí xe ô tô dừng thì vòng lại đi về hướng Ninh Bình khi đi đến vị trí ngang với xe ô tô cách hông xe bên lái khoảng 10m thì dừng lại tiếp tục ném viên đá kích thước (6 x 7 x 4) cm về phía xe, viên đá trúng vào khung sườn kim loại bên lái của xe ô tô, rơi xuống mặt đường nhưng khung sườn bên lái không bị hư hỏng gì. Sau khi ném viên đá thứ 2 vào xe ô tô Tuấn A điều khiển xe mô tô đến vị trí D đứng và nói với D: “ném xong rồi” thì D biết là Tuấn A đã ném vỡ kính của nhà xe T. Sau đó, Tuấn A điều khiển xe mô tô trở D về nhà hàng Th 35. Anh Thái Văn Th sau khi kiểm tra xe thấy xe chỉ bị vỡ ô kính chắn gió số 3 bên phụ, hành khách trên xe không ai bị thương nên nhặt 01 viên đá bám dính xi măng kích thước (3 x 7 x 6 ) cm rơi ở bên trong xe và 01 viên đá kích thước (6 x 7 x 4) cm rơi ở trên đường quốc lộ 1A cất đi rồi tiếp tục điều khiển xe về Nghệ An.

Lần thứ ba: Khoảng 20 giờ 00 ngày 03/03/2023, Trần Văn D gọi điện cho Nguyễn Tuấn A rủ Tuấn Anh tiếp tục đi ném đá vào xe ô tô của nhà xe T. D nói “Tối nay anh em mình đi ném chỗ nhà xe T nhé”, Tuấn A biết D rủ đi ném đá vào xe ô tô khách của nhà xe T nên nói “vâng”. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Tuấn A điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 35B1 – 374.xx đi từ nhà đến nhà hàng Th 35 gặp Trần Văn D. Tại đây D nói với Tuấn A: “Tý chở anh đến đầu đường Hoá chất mỏ để anh đứng đấy nhìn xe rồi báo lại”, Tuấn A nói “Vâng” rồi ngồi chơi tại nhà hàng. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày Tuấn A sử dụng xe mô tô biển kiểm soát 35B1 – 374.xx trở D đến khu vực đường rẽ vào Hóa chất mỏ, D xuống xe đứng trên vỉa hè đường Quốc lộ 1A thuộc địa phận tổ 16, phường N, thành phố T tại đây D nói với Tuấn A: “Sang bên đường đối diện đứng khi nào thấy xe ô tô khách chạy qua sẽ gọi điện thoại”, nghe vậy thì Tuấn A điều khiển xe mô tô đi sang bên đường hướng Ninh Bình – Nghệ An dừng xe ở ngõ nhỏ bên phải của quốc lộ 1A, trước cửa hàng tạp hoá Đ, thuộc tổ 19, phường N, thành phố T, Tuấn A nhặt 01 viên đá kích thước (5 x 4 x 5) cm cầm trên tay trái và đứng ở mép đường chờ xe ô tô của nhà xe T. Khoảng 22 giờ 40 phút cùng ngày Trần Văn D quan sát thấy xe ô tô khách nhãn hiệu THACO, loại 34 chỗ, biển kiểm soát 37F – 002.xx, trên đầu xe có dòng chữ T chạy bằng đèn led, do anh Thái Văn Th điều khiển đi trên quốc lộ 1A theo hướng Ninh Bình – Nghệ An thì D gọi điện thoại cho Tuấn A và nói: "Nó đến rồi đấy". Nghe D nói, Tuấn A biết là xe ô tô khách của nhà xe T đang đi đến gần vị trí Tuấn A đứng nên nhìn ra đường Quốc lộ 1A về phía Ninh Bình thì thấy có xe ô tô biển kiểm soát 37F – 002.xx đầu xe có dòng chữ T do anh Th điều khiển đang đi đến, Tuấn A đợi phần đầu xe ô tô chạy qua, thì ném viên đá đang cầm trên tay trái trúng vào tấm kính chắn gió thứ 2 bên phụ của xe ô tô làm cho tấm kính này bị thủng 1 lỗ, phần còn lại của tấm kính bị rạn nứt, viên đá rơi xuống đường. Ném xong, Tuấn A lấy xe mô tô điều khiển xe đi ngược chiều quay lại khu đầu đường Hoá chất mỏ đón Trần Văn D, cả hai bỏ về. Anh Th bị Tuấn A ném vào xe ô tô thì giảm tốc, dừng xe bên lề đường (cách vị trí ném khoảng 100m), kiểm tra xe sau đó đến Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố T trình báo.

Nhận được tin báo của anh Thái Văn Th, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu giữ trên mặt đường quốc lộ 1A (cách vị trí đỗ của xe ô tô 103m) 01 viên đá có kích thước (5 x 4 x 5) cm.

Ngày 11/3/2023 anh Phan Văn H đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T trình báo sự việc ngày 07/02/2023 khi anh điều khiển xe ô tô BKS 37B - 022.xx của nhà xe H đi trên quốc lộ 1A đến khu vực thuộc tổ 21, phường N, thành phố T thì bị ném vỡ kính chắn gió.

Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố T ra yêu cầu định giá tài sản, xác định giá trị thiệt hại của tấm kính bên phụ số 2 và số 3 xe ô tô BKS 37F - 002.xx và tấm kính bên phụ số 4 xe ô tô biển kiểm soát 37B – 022.xx.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 10/KL-HĐĐG ngày 7/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố T kết luận vào thời điểm ngày 3/3/2023, giá trị của 01 tấm kính bên phụ số 2, kích thước (2055 x 1419) cm của xe ô tô khách nhãn hiệu THACO, loại 34 chỗ, biển kiểm soát 37F -002.xx là 3.619.300 đồng. Tại bản kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐĐG ngày 23/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố T kết luận vào thời điểm ngày 07/02/2023, giá trị của 01 tấm kính bên phụ số 3, kích thước (2055 x 1419) cm của xe ô tô khách nhãn hiệu THACO, loại 34 chỗ, biển kiểm soát 37F - 002.xx là 4.014.700 đồng; giá trị của 01 tấm kính bên phụ số 4, kích thước (2055 x 1410) cm của xe ô tô khách nhãn hiệu THACO, loại 44 chỗ, biển kiểm soát 37B - 022.xx là 3.065.000 đồng;

Trong quá trình điều tra, ngày 21/3/2023, anh Thái Văn Th đến Cơ quan cảnh sát điều tra giao nộp 2 viên đá mà Tuấn Anh dùng ném vào xe ô tô ngày 07/02/2023 (01 viên kích thước (3 x 7 x 6) cm; 01 viên kích thước (6 x 7 x 4) cm.

Quá trình điều tra, các bị cáo Trần Văn D và Nguyễn Tuấn A đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 63/CT – VKS ngày 24 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình đã truy tố các bị cáo Trần Văn D và Nguyễn Tuấn A ra trước Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp để xét xử về tội: “Cố ý làm hư hỏng tài sản" theo khoản 1, khoản 5 Điều 178 của Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả do hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Trần Văn D và Nguyễn Tuấn A phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản".

+ Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo:

- Trần Văn D từ 08 (tám) đến 10 (mười) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giam 26/5/2023.

- Nguyễn Tuấn A từ 06 (sáu) đến 08 (tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giam 26/5/2023

- Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 pro max, màu trắng.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5S, màu đen.

+ Tịch thu tiêu hủy:

- 01 sim số thuê bao 08181811xx - 01 sim số thuê bao 0363688xxx - 01 viên đá dạng xi măng, không rõ hình thù, có kích thước (3 x 7 x 6) cm - 01 viên đá không rõ hình thù có kích thước (6 x 7 x 4) cm - 01 viên đá không rõ hình thù có kích thước (5 x 4x 5) cm Trong quá trình điều tra bị hại bà Phạm Thị B trình bày: khoảng hơn 23 giờ ngày 07/02/2023 bà có nghe anh H báo cáo lại việc khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày khi anh H điều khiển xe ô tô khách BKS 37B – 022.xx chở khách, khi đi qua khu vực thành phố T thì bị một nam thanh niên ném đá vào xe ô tô làm vỡ ô kính thứ 4 bên phụ tính từ đầu xe thì bà có bảo anh H thôi cứ đảm bảo an toàn cho hành khách trên xe rồi đưa xe về nhà xe hôm sau đi sửa chữa. Đến ngày 08/02/2023 bà đến kiểm tra lại chiếc xe ô tô BKS 37B – 022.xx bị hư hỏng như thế nào thì bà xác định ô kính chắn gió bên phụ thứ 4 tính từ đầu xe xuống bị vỡ thủng một góc làm cho toàn bộ tấm kính chắn gió này bị vỡ rời ra. Ngoài ra bà xác định chiếc xe ô tô của bà không bị hư hỏng gì khác. Bà đã nhận bồi thường từ các bị cáo và không có yêu cầu gì, đồng thời xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Trong quá trình điều tra bị hại ông Phan Văn Ch trình bày: hiện nay ông đang kinh doanh vận tải hành khách tuyến Nghệ An – Bắc Ninh và ngược lại, ngày 07/02/2023 và ngày 03/3/2023 khi xe ô tô khách của ông đi qua khu vực thành phố T do anh Thái Văn Th điều khiển thì bị một nam thanh niên cầm đá ném vào xe của ông làm vỡ ô cửa kính thứ 2 và thứ 3bên phụ tính từ đầu xe xuống, sự việc này xảy ra thì ông có nghi ngờ cho D là chủ nhà hàng Th 35 vì thời gian trước xe của ông thường xuyên cho xe vào nhà hàng của D để khách nghỉ ngơi và ăn uống tuy nhiên thời gian gần đây khách phản ánh nhà hàng Th 35 vệ sinh không sạch sẽ và đồ ăn không đảm bảo nên ông đã không cho xe vào nữa nên ông nghĩ do D bực tức và đã làm việc này. Ông đã nhận bồi thường từ các bị cáo và không có yêu cầu gì, đồng thời xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Trong quá trình điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần H trình bày: do Tuấn A là bạn của anh nên khoảng tháng 01/2023 lúc này cũng là gần tết thì Tuấn A có nói với anh mượn chiếc xe mô tô để đi lại trong dịp tết, do anh có hai chiếc xe và không dùng đến chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wawe biển kiểm soát 35B2 – 374.xx nên anh đã đồng ý cho Tuấn A mượn chiếc xe này. Việc Tuấn A sử dụng chiếc xe này làm phương tiện đi ném đá vào các nhà xe thì anh không biết việc này.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi bị truy tố như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp. Các bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét xử phạt các bị cáo mức án thấp nhất để yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận: Trần Văn D là chủ nhà hàng Th 35 kinh doanh dịch vụ ăn uống. Do không thấy các xe ô tô khách BKS 37B - 022.xx chạy tuyến Nghệ An - Hà Nội do bà Phạm Thị B là chủ và xe ô tô khách BKS 37F - 002.xx chạy tuyến Nghệ An - Bắc Ninh do anh Phan Văn Ch làm chủ vào nhà hàng dừng nghỉ để ăn uống và vệ sinh cá nhân. D bực tức, nẩy sinh ý định ném đá vào các xe ô tô cho bõ tức.

Tối các ngày 07/02/2023 và 03/3/2023, Trần Văn D rủ Nguyễn Tuấn A là nhân viên của nhà hàng cùng đi ném xe ô tô, Tuấn A đồng ý. Trần Văn D trực tiếp đứng ở ria đường quốc lộ 1A quan sát các xe ô tô rồi báo cho Tuấn A ném. Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 07/02/2023, tại đoạn đường Quốc lộ 1A thuộc tổ 21, phường N, thành phố T, Nguyễn Tuấn A được D báo tin đã dùng đá ném vào xe ô tô BKS 37B - 022.xx của nhà xe H làm vỡ 01 tấm kính chắn gió số 4 bên phụ, gây hư hỏng xe ô tô trị giá 3.065.000 đồng. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, tại tổ 5, phường N, thành phố T, Tuấn A tiếp tục dùng đá ném vỡ 01 tấm kính chắn gió số 3 bên phụ xe ô tô BKS 37F - 002.xx của nhà xe T làm hư hỏng xe ô tô trị giá 4.014.700 đồng và khoảng 22 giờ 30 phút ngày 03/3/2023 tại đường quốc lộ 1A, thuộc tổ 19, phường N, thành phố T, Tuấn A dùng đá ném vỡ 01 tấm kính chắn gió số 2 bên phụ xe ô tô BKS 37F - 002.xx của nhà xe T làm hư hỏng xe ô tô trị giá 3.619.300 đồng. Tổng trị giá thiệt hại của xe ô tô BKS 37B - 022.xx và xe ô tô BKS 37F - 002.xx là 10.699.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội cố ý làm hư hỏng tài sản.

Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 178 của Bộ Luật Hình sự.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 178:

1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiển từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

………… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang, bức xúc trong quần chúng nhân dân mà còn gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố T. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh đối với các bị cáo đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

Trong vụ án này có hai đối tượng tham gia nhưng mang tính đồng phạm giản đơn, khi quyết định hình phạt cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đồng thời xem xét đến vai trò đồng phạm của từng bị cáo để cá thể hóa mức hình phạt cho phù hợp.

Đối với bị cáo Trần Văn D là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi ném đá vào các nhà xe gây hư hỏng tài sản và có thể gây thương tích cho hành khách trên xe là nguy hiểm xong bị cáo vẫn xúi giục và chỉ điểm cho Nguyễn Tuấn A thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy về trách nhiệm hình sự của bị cáo cao hơn bị cáo Tuấn A là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với bị cáo Nguyễn Tuấn A là người nhận thức rõ hành vi ném đá vào các nhà xe gây hư hỏng tài sản và có thể gây thương tích cho hành khách trên xe nhưng khi D xúi giục và chỉ điểm để bị cáo thực hiện việc ném đá vào các nhà xe, bị cáo không những không khuyên can D mà vẫn cố tình thực hiện hành vi. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của bị cáo đã gây ra và thấp hơn bị cáo D là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo Trần Văn D và Nguyễn Tuấn A 3 lần cố ý làm hư hỏng tài sản, mỗi lần giá trị thiệt hại đều trên 2.000.000 đồng, đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên các bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội 2 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, sau khi phạm tội các bị cáo đầu thú về hành vi phạm tội ngày 07/2/2023, các bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả và bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về nhân thân: các bị cáo Trần Văn D và Nguyễn Tuấn A có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[4] Xét tính chất hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo và phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ nghiêm để giáo dục cải tạo các bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 178 của Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 5 năm”. Xét thấy các bị cáo Trần Văn D và Nguyễn Tuấn A thực hiện hành vi phạm tội không nhằm mục đích lợi nhuận nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Đối với anh Trần H là người cho Nguyễn Tuấn A mượn xe mô tô biển kiểm soát 35B1 - 374.xx làm phương tiện đi lại. Khi cho mượn và trong suốt quá trình Tuấn A sử dụng xe, anh Hoàn không biết Tuấn A sử dụng xe mô tô làm phương tiện phạm tội, nên anh H không vi phạm pháp luật.

[7] Về trách nhiệm dân sự quá trình điều tra Trần Văn D, Nguyễn Tuấn A đã thỏa thuận, bồi thường cho ông Phan Văn Ch là chủ nhà xe T và bà Phạm Thị B là chủ nhà xe H mỗi nhà xe là 20.000.000 đồng. Ông Ch, bà B đã nhận đủ số tiền trên và không có đề nghị gì nên Hôi đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Về vật chứng và tài sản thu giữ Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 pro max, màu trắng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5S, màu đen thu giữ của Trần Văn D và Nguyễn Tuấn A đây là công cụ phạm tội cần tịch thu sung quỹ nhà nước là phù hợp điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối với 01 sim số thuê bao 08181811xx và 01 sim số thuê bao 0363688xxx không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối với 03 viên đá là công cụ phạm tội cần tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 35B1 – 374.xx. Quá trình điều tra xác định là tài sản của anh Trần H cho Tuấn A mượn làm phương tiện đi lại, anh H không biết Tuấn A sử dụng làm phương tiện phạm tội. Ngày 5/7/2023 Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh H là đúng theo quy định của pháp luật.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[9] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 178; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự chung cho cả hai bị cáo Trần Văn D và Nguyễn Tuấn A.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Căn cứ cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố:

Bị cáo Trần Văn D và bị cáo Nguyễn Tuấn A phạm tội: “Cố ý làm hư hỏng tài sản".

- Xử phạt bị cáo Trần Văn D 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo là ngày 26 tháng 5 năm 2023.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn A 07 (bẩy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam bị cáo là ngày 26 tháng 5 năm 2023.

2/ Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước:

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 pro max, màu trắng, số IMEL1: 352846113683247, số IMEL2: 352846113622880, điện thoại đã cũ, đã qua sử dụng.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5S, màu đen, số IMEL1: 865222040533113, số IMEL2: 865222040533105, điện thoại đã cũ, đã qua sử dụng.

+ Tịch thu tiêu hủy:

- 01 sim số thuê bao 08181811xx, trên sim có dòng số 89840200010831559729.

- 01 sim số thuê bao 0363688xxx trên sim có dòng số 8984048000335487324.

- 01 viên đá dạng xi măng, không rõ hình thù, có kích thước (3 x 7 x 6) cm - 01 viên đá không rõ hình thù có kích thước (6 x 7 x 4) cm - 01 viên đá không rõ hình thù có kích thước (5 x 4x 5) cm Những vật chứng trên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T theo biên bản mở niêm phong, giao nhận vật chứng và niêm phong lại vật chứng ngày 29/8/2023 và biên bản giao nhận vật chứng ngày 29 tháng 8 năm 2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

3/Về án phí:

Buộc các bị cáo Trần Văn D và bị cáo Nguyễn Tuấn A mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 67/2023/HS-ST

Số hiệu:67/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về