TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH THỦY, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
Trong ngày 28 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2022/TLST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44 /2022/QĐXXST- HS ngày 18 tháng 6 năm 2022 và theo thông báo mở lại phiên tòa số: 309/TB-TA ngày 18 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Ngọc O; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam;
- S năm 1982;
- Nơi ĐKHKTT: Khu 13, xã ĐT, huyện T, tỉnh Phú Thọ;
- Chỗ ở hiện nay: Khu 13, xã ĐT, huyện T, tỉnh Phú Thọ;
- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;
- Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 6/12.
- Bố: Trần Công B – S năm 1941. Mẹ: Bùi Thị C – S năm 1957.
- Vợ: Lê Thị P – S năm 1986. - Con: Có 03 người con (Lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2012);
- Anh chị em ruột: Có 05 anh em, bị cáo là thứ ba;
- Tiền án:
+ Ngày 12/11/2021, Tại Bản án số 52/2021/HS - ST của TAND huyện T, Trần Ngọc O bị TAND huyện T xử phạt 15 tháng án tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng kể từ ngày tuyên án về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự.
- Tiền sự: Không;
Hiện bị can đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã ĐT, huyện T. (Có mặt).
Người bị hại: Anh Lê Xuân L, sinh năm 1976.
Địa chỉ: Khu 16, xã ĐT, huyện T, tỉnh Phú Thọ.(Có mặt).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1 - Ông Bùi Văn D, sinh năm 1964.
Địa chỉ : Khu 13, xã ĐT, huyện T, tỉnh Phú Thọ.(Vắng mặt).
2 - Chị Lê Thị P, sinh năm 1986.
Địa chỉ : Khu 13, xã ĐT, huyện T, tỉnh Phú Thọ.(Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 15 giờ 30 phút 07/01/2022, Công an xã ĐT, huyện T tiếp nhận đơn trình báo của anh Lê Xuân L – S năm 1976, trú tại khu 16, xã ĐT, huyện T với nội dung: Chiều ngày 07/01/2022, anh L bị Trần Ngọc O – S năm 1982, trú tại khu 13, xã ĐT, huyện T đánh và dùng gạch đập phá chiếc xe mô tô BKS 19L1 - xxxxx, nhãn hiệu HONDA AIRBLADE của anh L dựng tại sân nhà anh Bùi Văn D – S năm 1964, trú tại khu 13, xã ĐT, huyện T, làm chiếc xe bị hư hỏng, gây thiệt hại khoảng hơn 2.000.000đ. Nhận thấy vụ việc có dấu hiệu của tội phạm nên Công an xã ĐT đã chuyển đơn trình báo của anh Lê Xuân L đến Cơ quan CSĐT - Công an huyện T để xác minh, xử lý theo quy định của phá p L. Sau khi tiếp nhận tin báo, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã tiến hành khám nghiệm hiện trường và thu giữ tại 01 xe mô tô BKS 19L1 - xxxxx cùng 03 viên gạch nung đỏ, loại gạch đặc để phục vụ quá trình điều tra, làm rõ vụ việc.
Tại Cơ quan điều tra, nội dung vụ việc được làm rõ như sau:
Anh Lê Xuân L – S năm 1975, trú tại khu 16, xã ĐT, huyện T, tỉnh Phú Thọ làm nghề cai thầu xây dựng nên thường thuê người đi làm thợ xây cho mình. Trong số những người anh L thuê th ì có Trần Ngọc O – S năm 1982, trú tại khu 13, xã ĐT, huyện T. Quá trình O làm thuê cho anh L, tiền công của O đã được anh L ứng trước cho vợ của O là chị Lê Thị P – S năm 1986, trú tại khu 13, xã ĐT, huyện T. Trưa ngày 07/01/2022, sau khi ăn cơm, uống rượu tại nhà mình xong thì O có nói với chị P rằng O đi sang nhà anh L để đòi tiền công thì chị P bảo với O là tiền công O đi làm thuê cho anh L chị P đã ứng hết rồi. Mặc dù nghe chị O nói vậy nhưng O vẫn đi đến nhà anh L để đòi tiền công của mình. Khi đến nhà anh L, O đã yêu cầu anh L thanh toán tiền công cho mình thì anh L nói với O là đã thanh toán tiền công cho vợ của O rồi và bảo O đi về “mai tỉnh rượu thì đến giải quyết” nhưng O không nghe mà lao vào vật lộn với anh L. Lúc này, vợ của anh L là chị Nguyễn Thị L – S năm 1981 cùng con gái là Lê Thị Khánh L1 - S năm 2004, đều trú tại khu 13, xã ĐT, huyện T và anh trai của anh L là anh Lê Xuân Thái – S năm 1972, trú tại khu 16, xã ĐT, huyện T chứng kiến sự việc nên đến can ngăn và đẩy O ra khỏi nhà anh L. Do không đòi được tiền công và bị đuổi ra khỏi nhà anh L nên chiều cùng ngày, O tiếp tục đến công trình mà anh L đang tiến hành xây dựng là nhà ở của gia đình ông Bùi Văn D – S năm 1964, trú tại khu 13, xã ĐT, huyện T, tỉnh Phú Thọ để tìm anh L. Thấy anh L ở đó, O lao vào đánh anh L nhưng không đánh được, sau đó hai bên vật lộn nhau trên nền nhà đang xây của ông D thì được ông Hoàng Văn S – S năm 1968, trú tại khu 9, Hoàng Xá, T, ông Hoàng Kim Th – S năm 1970, trú tại khu 14, xã Hoàng Xá, huyện T, tỉnh Phú Thọ và ông D (chủ nhà) can ngăn, rồi anh L bỏ chạy ra ngoài đường. Bực tức vì không đánh được anh L, O đi lại đống gạch nung đỏ ở sân nhà ông D, mỗi tay nhặt một viên gạch cầm lên rồi đi về phía xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đe n bạc BKS 19L1- xxxxx của anh L đang dựng tại sân nhà ông D, mục đích để đập xe mô tô của anh L. Khi đi đến vị trí cách xe mô tô của anh L khoảng 2m đến 3m, O dùng tay phải lần lượt ném từng viên gạch trên hai tay về phía xe của anh L, trong đó có một viên trượt qua yên xe, trúng vào thân xe, còn một viên O không rõ trúng vào bộ phận nào của xe. Sau đó, O tiếp tục dùng tay phải nhặt một viên gạch cầm đến vị trí đầu xe của anh L, O dơ viên gạch lên cao và đập mạnh xuống bộ phận đồng hồ công tơ mét và ốp nhựa đầu xe mô tô của anh L khoảng 2 đến 3 lần, O tiếp tục dùng tay phải rút chìa khóa xe đang cắm ở ổ khóa xe của anh L ném ra phía ngoài đường rồi đi về nhà. Thấy vậy anh L đến Công an xã ĐT, huyện T trình báo vụ việc. Quá trình làm việc với Cơ quan điều tra, anh L đã giao nộp 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang BKS 19L1 – xxxxx, chủ xe là Lê Xuân L, địa chỉ khu 4, xã Trung Thịnh, huyện T, tỉnh Phú Thọ (Nay là khu 16, xã ĐT, huyện T).
Ngày 18/01/2022, Cơ quan CSĐT - Công an huyện T đã Yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T xác định giá trị tài sản bị thiệt hại đối với chiếc xe máy của anh L do bị O đập phá. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 02/KL - HĐĐGTS, ngày 19/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện T xác định: “Tài sản thiệt hại trong vụ cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác 01 (một) chiếc xe mô tô BKS 19L1 - xxxxx, nhãn hiệu Honda AirBlade, màu đen bạc, xe đã cũ đã qua sử dụng cần định giá là 3.010.000 đồng (Ba triệu không trăm mười nghìn đồng)”.
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ thu thập được, ngày 22/02/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Trần Ngọc O về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 178 Bộ Luật hình sự. Tại Cơ quan điều tra, bị can đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên, lời khai của bị can phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, người liên quan, kết quả định giá và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Tại bản cáo trạng số 23/CT- VKSTT ngày 09 tháng 5 năm 2022, của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Trần Ngọc O về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 178 Bộ Luật hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.
Tại phiên toà hôm nay Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
* Căn cứ vào khoản 1 Điều 178; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Khoản 5 Điều 65; Điều 55; Điều 56; Điều 38 Bộ Luật Hình sự.
1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Ngọc O phạm tội "Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
2. Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc O từ 09 đến 12 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 15 tháng án tù nhưng cho hưởng án treo của bản án số 52/2021/HS - ST ngày 12/11/2021 của TAND huyện T. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án từ 24 đến 27 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Trần Ngọc O.
3. Về vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ Luật hình sự; điểm b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ Luật tố tụng hình sự.
- Trả lại cho anh Lê Xuân L: 01 xe mô tô BKS 19L1 – xxxxx, 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 00xxxx cho xe mô tô BKS 19L1 – xxxxx.
- Tịch thu tiêu hủy: 03 viên gạch nung đỏ, loại gạch đặc, cùng kích thước dài 20x10x5,5cm.
(Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện T đang quản lý, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/5/2022).
4. Về bồi thường dân sự: Xác nhận tại phiên Tòa bị cáo và gia đình bị cáo đã bồi thường cho người bị hại 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng).
Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Người bị hại xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu và chứng cứ được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt không có lý do. Kiểm sát viên, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xét thấy người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có lời khai thể hiện trong hồ sơ và việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 Bộ Luật tố tụng hình sự để tiếp tục xét xử vụ án là phù hợp.
[2] Về nội dung:
[2.1] Tại phiên tòa bị cáo Trần Ngọc O đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng, không oan sai. Lời khai nhận của bị cáo tại Cơ quan điều tra và lời khai tại phiên toà hôm nay đều Th nhất với nhau, phù hợp với nội dung vụ án và phù hợp với vật chứng thu giữ. Như vậy khẳng định: Ngày 07/01/2022, tại nhà ông Bùi Văn D – S năm 1964, thuộc địa phận khu 13, xã ĐT, huyện T, tỉnh Phú Thọ, Trần Ngọc O – S năm 1982, trú tại khu 13, xã ĐT, huyện T, tỉnh Phú Thọ đã có hành vi sử dụng 03 viên gạch nung đỏ (loại gạch đặc) ném, đập nhiều lần vào các vị trí khác nhau trên chiếc xe mô tô BKS 19L1 – xxxxx của anh Lê Xuân L – S năm 1975, trú tại khu 16, xã ĐT, huyện T, tỉnh Phú Thọ gây hư hỏng một số bộ phận trên xe, gây thiệt hại về tài sản có giá trị là 3.010.000đ. Hành vi của bị cáo là hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, được pháp L hình sự bảo vệ, thiệt hại về tài sản do hành vi vi phạm pháp L của bị cáo gây ra đã đến mức xử lý về hình sự, nên hành vi của bị cáo bị xử lý theo quy định tại Khoản 1 Điều 178 Bộ Luật hình sự.
Hành vi của bị cáo Trần Ngọc O đã phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
Tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 178 Bộ Luật Hình sự.
Khoản 1 Điều 178 Bộ Luật Hình sự quy định:
“1. Người nào… cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng… thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm...” Xét tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo Trần Ngọc O là nguy hiểm cho xã hội, đã gây mất an ninh trong khu vực. Với lỗi cố ý bị cáo O bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp L bảo vệ. Bị cáo O là người đã trưởng thành có đầy đủ năng lực pháp L, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp L, bị pháp L nghiêm cấm. Vì vậy, cần đưa bị cáo ra xét xử và có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Tại bản án số 52/2021/HS - ST ngày 12/11/2021 của TAND huyện T (Sau đây gọi tắt là Bản án số 52), Trần Ngọc O bị TAND huyện T xử phạt 15 tháng án tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng kể từ ngày tuyên án về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự. Tính đến thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án này là ngày 07/01/2022, bị cáo đang trong thời gian thử thách của Bản án số 52, do đó Bản án số 52 được xác định l à tiền án của bị cáo và buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 15 tháng tù cho hưởng án treo thành 15 tháng tù giam theo khoản 5 Điều 65 BLHS.
[2.2].Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo HĐXX thấy rằng:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ Luật hình sự Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên Tòa hôm nay bị cáo O đã thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Tại phiên Tòa bị cáo đã tích cực vận động gia đình và người thân bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; Bố đẻ của bị cáo là ông Trần Công B là người có công với cách mạng được hưởng trợ cấp mất sức nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự.
[2.3]Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 178 BLHS bị cáo Trần Ngọc O còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm nhưng. Theo xác minh của cơ quan điều tra thì bị cáo không có tài sản gì riêng, bị cáo là lao động tự do nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[3] Về vật chứng:
- Đối với: 01 xe mô tô BKS 19L1 – xxxxx, 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 00xxxx cho xe mô tô BKS 19L1 – xxxxx (tạm giữ của anh Lê Xuân L) là tài sản hợp pháp của anh L nên trả lại cho anh L là phù hợp.
- Đối với: 03 viên gạch nung đỏ, loại gạch đặc, cùng kích thước dài 20x10x5,5cm, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Bùi Văn D không đề nghị trả lại nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.
[4] Về bồi thường dân sự : Tại phiên Tòa bị cáo và gia đình bị cáo đã bồi thường cho người bị hại 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng). Người bị hại không có yêu cầu gì khác cần xác nhận.
[5]Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong án hình sự. Bị cáo có mặt, người bị hại có mặt, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt và vắng mặt có quyền kháng cáo theo quy định của pháp L.
[6] Đề nghị của đại diện VKSND huyện T tại phiên tòa phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
* Căn cứ vào khoản 1 Điều 178; Điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Khoản 5 Điều 65; Điều 55; Điều 56; Điều 38 Bộ Luật Hình sự.
1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Ngọc O phạm tội "Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
2. Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc O 12 (Mười hai) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 15 tháng án tù nhưng cho hưởng án treo của bản án số 52/2021/HS - ST ngày 12/11/2021 của TAND huyện T. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 27 (Hai mươi bẩy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Trần Ngọc O.
3. Về vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ Luật hình sự; điểm b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ Luật tố tụng hình sự.
- Trả lại cho anh Lê Xuân L: 01 xe mô tô BKS 19L1 – xxxxx, 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 00xxxx cho xe mô tô BKS 19L1 – xxxxx.
- Tịch thu tiêu hủy: 03 viên gạch nung đỏ, loại gạch đặc, cùng kích thước dài 20x10x5,5cm.
(Vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện T đang quản lý, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/5/2022).
4. Về bồi thường dân sự: Xác nhận tại phiên Tòa bị cáo và gia đình bị cáo đã bồi thường cho người bị hại 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng).
5. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2, Điều 136 của Bộ Luật tố tụng hình sự .
Điểm a, Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Trần Ngọc O phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
6.Về Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo Bản án; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại trụ sở UBND nơi họ cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.
Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 27/2022/HS-ST
Số hiệu: | 27/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Thuỷ - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về