Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 20/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 

 BẢN ÁN 20/2021/HS-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3 số 139  Nguyễn Đình Chiểu, Phường 6, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 06/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2021/QĐXXST – HS ngày  22/01/2021 đối với bị cáo:

1. Tạ Duy T; giới tính: nam, sinh năm 1987 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: 416/142 Nguyễn Đình C, Phường B, Quận B, Thành phố A; nghề nghiệp: tài xế công nghệ; trình độ học vấn: 10/12; con ông Tạ Văn T, sinh năm  1963 và bà Trương Thị Thu D, sinh năm 1963; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 30/10/2020.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Ngô Lê Minh H; giới tính: nam, sinh năm 1998 tại Thành phố A; hộ khẩu thường trú: 376/150 Nguyễn Đình C, Phường B, Quận B, Thành phố A; nơi cư trú: 57/3 Đông Hưng T, phường F; Quận M, Thành phố A; nghề nghiệp: tài xế công nghệ; trình độ học vấn: 08/12; con ông Ngô Anh T, sinh năm 1960  và bà Lê Thị Hằng N, sinh năm 1960; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 04/9/2015 bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử phạt  01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 năm, về tội  “Cướp giật tài sản”, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày  30/10/2020.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Nguyễn Đức Duy M, sinh năm 1994.

Địa chỉ thường trú: 153/10 CT, Phường M, Quận M, Thành phố A. Địa chỉ liên lạc: 66/55 HVg, Phường M, Quận N, Thành phố A.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng  13  giờ  ngày  22/8/2020  Tạ  Duy  T  là  nhân  viên  giao  hàng BEAMIN đến quán cơm tại số 117/3 VC, Phường B, Quận B để nhận hàng đi giao thì gặp ông Nguyễn Đức Duy M và cả hai xảy ra mâu thuẫn với nhau. Ông M yêu cầu T ra ngoài nói chuyện thì T không ra nên ông M đi giao hàng. Khoảng 5 phút sau, ông M quay về đến trước số 136 VC, Phường B, Quận B thì gặp T. T chặn đầu xe của ông M lại nên cả hai xảy ra xô xát, ông M cầm chìa khóa trong tay phải đấm vào mặt của T làm chảy máu và bầm mắt trái. Lúc này, Ngô Lê Minh H là bạn của T cũng đi giao hàng đến, thấy T và ông M đang đánh nhau nên cũng xông vào cùng với T đuổi ông M bỏ chạy về phía đường Điện Biên Phủ và bỏ lại chiếc xe Honda Future biển số 59U2 - 389.08. Do còn bực tức nên T dùng mũ bảo hiểm đập vào xe của ông M rồi cùng H đi về nhà T tại số  416/142 ĐC, Phường B, Quận B lấy ra 01 thanh sắt tròn, màu trắng dài khoảng  40cm. Trung cũng nhặt 01 thanh sắt màu đen dài khoảng 40 - 50cm tại công trình đang xây dựng ở đầu hẻm ra tìm ông M tại trước số 136 VC, Phường B, Quận B nhưng không thấy nên cả hai mỗi người dùng một thanh sắt đập phá làm vỡ đồng hồ đo km, đèn xi nhan trước, sau, đèn chiếu hậu, mặt nạ trước của chiếc xe Honda Future biển số 59U2 – 389XX. Sau khi đập phá xe của ông M, H bỏ lại thanh sắt màu đen tại trước số 333 BP, Phường B, Quận B nên không thu hồi được.

Đến 13 giờ 10 phút cùng ngày, ông M đến Công an Phường B, Quận B trình báo sự việc. Công an Phường B, Quận B đã lập hồ sơ ban đầu, chuyển hồ sơ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 3 xử lý. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 3, Tạ Duy T và Ngô Lê Minh H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 137/KL-HĐĐGTS ngày 30/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 3, xác định: “Chi phí khôi phục lại phần tài sản bị hư hỏng do đập phá của chiếc xe mô tô, gắn máy 02 bánh nhãn hiệu: Honda, loại: Future FI 125cc, sản xuất năm 2020, biển số 59U2  - 389.XX theo giá thị trường thời điểm tháng 08/2020 là 3.813.202 đồng”.

Tại Bản cáo trạng số 16/CT-VKS-HS ngày 13/01/2021, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Tạ Duy T và Ngô Lê Minh H tội danh “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm:

- Áp dụng  điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Tạ Duy T từ 6 đến 9 tháng tù giam.

- Áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Ngô Lê Minh H từ 6 đến 9 tháng tù giam.

Người bị hại ông Nguyễn Đức Duy M vắng mặt tại phiên tòa, đã được bồi thường thiệt hại, nhận lại tài sản và không có yêu cầu nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố, lời khai của người bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 13 giờ 00 phút ngày 22/8/2020 tại trước số 136 VC, Phường B, Quận B, các bị cáo Tạ Duy T và Ngô Lê Minh H đã có hành vi dùng mũ bảo hiểm và các thanh sắt đập phá chiếc xe máy Honda Future  biển số 59U2 – 389XX của ông Nguyễn Đức Duy M gây hư hỏng với tổng trị giá tài sản bị thiệt hại là 3.813.202 đồng. Hành vi của các bị cáo là đã phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 178 của  Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử có căn cứ để xử phạt các bị cáo theo khung hình phạt quy định tại khoản 1, Điều 178 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi đập phá tài sản là vi phạm pháp luật, nên có lỗi cố ý trực tiếp. Trong vụ án này có hai bị cáo cùng tham gia, nhưng không có sự bàn bạc phân công, thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành nhưng bị cáo T là người có vai trò tích cực hơn bị cáo H , nên Hội đồng xét xử cần xem xét khi lượng hình cho các bị cáo.

[2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra, thiệt hại không lớn và đã bồi thường cho người bị hại, được người bị hại làm đơn bãi nại. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng đối với các bị cáo tình các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại”; “người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” và “phạm tội gây thiệt hại không lớn” theo các điểm b, h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt. Đối với bị cáo Tạ Duy T, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51  Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

Xét thấy hai bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đối với bị cáo Ngô Lê Minh H, vào ngày 04/9/2015, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận xử phạt 01 năm  06  tháng  tù  nhưng  cho  hưởng  án  treo,  thời  gian  thử  thách  03  năm,  về  tội  “Cướp  giật  tài  sản”,  bị  cáo  đã  chấp  hành  xong  hình  phạt,  đã được xóa án tích. Căn cứ khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày  15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự, xét thấy tính chất, mức độ của bị cáo H thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án. Ngoài lần phạm tội này các bị cáo đều chấp hành tốt chủ trương, pháp luật Nhà nước, quy định địa phương.

[4]  t hai bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội cũng đủ giáo dục các bị cáo và thể hiện được tính nhân đạo của pháp luật.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã được bồi thường, nhận lại tài sản và làm đơn bãi nại cho các bị cáo T và H, không yêu cầu Tòa án giải quyết gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 xe gắn máy hiệu Honda Future FI 125cc màu đen nhám, biển số 59U2 - 389.XX, số khung: RLHJC-7659LY003XXX, số máy: JC90E0004XXX. Cơ quan điều tra đã trả tài sản trên cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Đức Duy M theo Quyết định số 16/CSĐT-HS ngày 28 tháng 9 năm  2020 và Biên bản trả lại đồ vật, tài liệu ngày 28/9/2020, là phù hợp với điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 thanh sắt tròn, màu trắng, dài khoảng 40 cm, thu giữ của bị cáo Thuận khi khám xét nơi ở và 01 mũ bảo hiểm màu xanh, phía sau mũ có ghi chữ Beamin là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy, là phù hợp với điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Đối với 01 chìa khóa xe hiệu Honda có số 0511, là vật dụng cá nhân của bị hại ông Nguyễn Đức Duy M, không phải là vật chứng của vụ án. Do đó, cần trả lại cho ông M, là phù hợp với điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình  sự.

[8] Về án phí: Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23  Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/016 của Ủy ban Thường vụ  Quốc Hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.       Tuyên bố các bị cáo Tạ Duy T; Ngô Lê Minh H phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

2.       Điều luật và mức hình phạt:

- Căn cứ khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65;  điểm  b, h, i, s khoản 1  Điều 51 và khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Tạ Duy T 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo.Thời gian thử thách là 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, 02/02/2021.

Giao bị cáo Tạ Duy T cho Ủy ban nhân dân Phường B, Quận B, Thành phố M giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị  cáo.

- Căn cứ khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65; điểm b, h, s khoản 1 Điều  51 và khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm  2017;

Xử phạt bị cáo Ngô Lê Minh H 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo.Thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, 02/02/2021.

Giao bị cáo Ngô Lê Minh H cho Ủy ban nhân dân phường HT, Quận H, Thành phố M giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3.       Các biện pháp tư pháp:

3.1.    Xư lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2; điểm a, b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 thanh sắt tròn, màu trắng, dài khoảng 40 cm và 01 mũ bảo hiểm màu xanh, phía sau mũ có ghi chữ Beamin.

Trả lại 01 chìa khóa xe hiệu Honda có số 0511 cho bị hại ông Nguyễn  Đức Duy M.

(Các tài sản trên được ghi trong Lệnh nhập kho vật chứng số 384/CSĐT- HS ngày 16/12/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 3).

3.2. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và được bồi thường, không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí:  Căn cứ khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự và  Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ  Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án;

Buộc bị cáo Tạ Duy T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

Buộc bị cáo Ngô Lê Minh H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000   đồng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9  Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại  Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 20/2021/HS-ST

Số hiệu:20/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về