TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 81/2021/HS-PT NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 60/2021/TLPT-HS ngày 02/7/2021 đối với bị cáo Lê Minh Th do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2021/HS-ST ngày 28 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri.
Bị cáo có kháng cáo: Lê Minh Th (H), sinh năm 1997 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp A, xã T, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: làm biển; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Minh Tr và bà Bùi Thị Tr; vợ: Nguyễn Thị Kim Ng; con: có 02 người con, lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2019; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt tạm giam từ ngày 08/9/2020 cho đến nay; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 09/5/2020, Lê Minh Th, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Thanh T1, Nguyễn Tú A, Mai Thanh Đ và Nguyễn Văn Tr uống nước tại quán cà phê Nụ Cười Mới thuộc ấp An Lợi, xã An Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Trong lúc uống nước, Th lấy tiền 200.000 đồng đưa cho T1 nhưng T1 không nhận và để lại trên bàn thì Nguyễn Hữu T nhìn thấy nên nói “tiền không xài để tao xài” rồi đưa tay lấy tiền. Lúc này, Th bực tức liền cầm lấy ly nhựa uống nước trên bàn đánh vào đầu T 01 cái làm bể ly; Th tiếp tục lấy chai Sting bằng thủy tinh đập vào trụ xi măng làm vỡ chai rồi cầm cổ chai tấn công ép T vào hàng rào và rạch vào mặt T gây thương tích, được Nguyễn Thanh T1 và mọi người can ngăn nên T tung thoát ra bỏ chạy, còn Th cũng bị thương tích ở tay nên kêu T1 chở về nhà. Trên đường về, Th gặp Ngô Thanh H và biết H lúc nào trong người cũng có con dao cán gấp nên xuống xe đi bộ lại hỏi mượn; H đưa cho Th con dao và khuyên Th đi về ngủ, đồng thời kêu T1 chở Thông về nhà rồi H bỏ đi. Khi chạy về ngang hẻm gần trại tôm giống Thành Nguyên ở ấp An Thới, xã An Thủy, Thông nhìn thấy T đang đứng chờ bạn ở bên lề đường liền bật dao đâm Tài 01 nhát trúng bụng, T cũng cầm kéo mang theo sẵn đâm sướt qua vai trái Th rồi Th nhảy xuống xe đâm tiếp 01 nhát trúng bụng T; cả hai giằng co rồi T vứt kéo bỏ chạy, Th đuổi theo T một đoạn nhưng không kịp nên bỏ về và sau đó làm mất con dao, còn T được mọi người đưa đến bệnh viện cấp cứu.
Vật chứng và tài sản tạm giữ (chưa xử lý), gồm:
- 01 (một) phần ly nhựa bị bể; 01 (một) chai thủy tinh loại Sting bị bể và 01 (một) cái kéo bằng kim loại màu đen tổng chiều dài 22cm, phần lưỡi dài 13cm, phần cán bọc nhựa màu đen, mũi kéo nhọn thu giữ tại hiện trường.
- 01 (một) con dao dài 40cm, lưỡi bằng kim loại màu đen dài 25cm, nơi rộng nhất lưỡi dao là 6,8cm, nơi hẹp nhất 03cm, mũi dao bằng, cán dao dài 15cm bằng gỗ tròn bị nứt do Nguyễn Hữu T giao nộp.
- 01 (một) con dao dài 18cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài 7,7cm, cán bọc nhựa màu đen dài 10,3cm, mũi nhọn của Lê Minh Th giao nộp.
* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 171 - 620/TgT ngày 01/7/2020, Trung tâm Pháp y tỉnh Bến Tre kết luận Nguyễn Hữu T bị: Vết thương má trái kích thước 12cm x 1,5cm đứt tới lớp cơ bám da, bờ sắc gọn đã lành sẹo kích thước 12cm x 0,1cm: 06%; vết thương đỉnh đầu dài 03cm đã lành sẹo kích thước 01cm x 0,2cm: 01%; vết thương bụng hạ sườn trái đường trung đòn trái 08cm thấu vào ổ bụng; vết thương ngực khoảng liên sườn XI - XII thấu vào ngực - bụng, thủng cơ hoành, phẩu thuật mở bụng đường giữa trên và dưới rốn, thấy vết thương ngực thấu vào ngực - bụng gây thủng cơ hoành: 21%, thủng gan trái 01 lỗ dài 02cm: 31%, thủng đại tràng ngang 01 lổ dài 01cm: 40%, xử lý khâu lại cơ hoành, khâu lại vết thương gan, khâu lại lỗ thủng đại tràng ngang, dẫn lưu kín khoang màng phổi trái, khâu lại các vết thương. Hiện vết thương hạ sườn trái đã lành sẹo kích thước 2,5cm x 0,5cm: 01%; vết thương ngực trái khoảng liên sườn XI, XII đã lành sẹo kích thước 04cm x 0,7cm: 02%; vết mỗ đường giữa trên và dưới rốn đã lành sẹo kích thước 14cm x 0,4cm: 02%; vết mỗ dẫn lưu hố chậu phải đã lành sẹo kích thước 1,5cm x 0,2cm: 01%; vết mỗ dẫn lưu kín khoang màng phổi trái khoảng liên sườn V, VI đường nách giữa trái đã lành sẹo kích thước 1,5cm x 0,5cm: 01%. Phần ly nhựa bị bễ hoặc chai thủy tinh (loại Sting) bị bể có thể gây ra được vết thương trên đầu của Tài, có thể chai Sting phù hợp nhiều hơn. Chai thủy tinh (loại Sting) bị bể nêu trên có thể gây ra vết thương trên má trái của T. Cái kéo bằng kim loại màu đen, con dao (được thu giữ) hay con dao (được mô tả) trong hình vẽ của Thông (nêu trong phần mẫu cần giám định) có thể gây ra được vết thương bụng, hạ sườn trái, vết thương ngực khoảng liên sườn XI - XII của T; con dao (được thu giữ) hay con dao (được mô tả) đều có thể phù hợp. Cơ chế hình thành vết thương là do vật sắc nhọn gây ra và xếp tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích là: 72%.
* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 170 - 620/TgT ngày 01/7/2020, Trung tâm Pháp y tỉnh Bến Tre kết luận Lê Minh Th bị: Vết thương sướt da vai trái đã lành sẹo kích thước 1,5cm x 0,1cm là 01%; hai vết thương vùng khủy tay phải kích thước 07cm x 01cm, sâu 02cm đã lành sẹo, kích thước 07cm x 01cm là 03%, 04cm x 02cm sâu 1,5cm đã lành sẹo kích thước 04cm x 0,3cm là 02%. Phần ly nhựa bị bể hoặc chai thủy tinh (loại Sting) bị bể nêu trên đều có thể gây ra được vết thương trên khủy tay phải của Thông, chai Sting có thể phù hợp nhiều hơn; cái kéo bằng kim loại màu đen có thể gây ra được vết thương trên vai trái của Thông. Cơ chế hình thành vết thương là do vật sắc nhọn gây ra và xếp tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích là 06%.
Đối với thương tích 06% của Lê Minh Th, do Lê Minh Th không yêu cầu khởi tố nên Cơ quan điều tra không xử lý.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2021/HS-ST ngày 28/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Lê Minh Th phạm “Tội cố ý gây thương tích”;
Căn cứ điểm d khoản 4 (thuộc điểm a, i khoản 1) Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Lê Minh Th 08 (tám) năm tù;
Thời hạn tù tính từ ngày 08/9/2020;
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm; ngày 07/6/2021 bị cáo Lê Minh Th kháng cáo yêu cầu được giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo Lê Minh Th khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung Bản án sơ thẩm và giữ nguyên kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt.
- Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau: đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định. Về tội danh, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo Lê Minh Th phạm “Tội cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 4 (thuộc điểm a, i khoản 1) Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Về hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 08 năm tù là tương xứng; tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới; kháng cáo của bị cáo không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Minh Th; giữ nguyên Bản án sơ thẩm. Áp dụng điểm d khoản 4 (thuộc điểm a, i khoản 1) Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Minh Th 08 (tám) năm tù về “Tội cố ý gây thương tích”, thời hạn tù tính từ ngày 08/9/2020. Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Bị cáo không tranh luận.
Bị cáo nói lời sau cùng: xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn kháng cáo phù hợp với quy định tại Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm; bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án: trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, có cơ sở xác định: vào khoảng 17 giờ 30 phút đến 18 giờ 30 phút ngày 09/5/2020, tại quán Nụ Cười Mới ở ấp An Lợi và ở ấp An Thới, xã An Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Bị cáo Lê Minh Th chỉ vì bực tức việc anh Nguyễn Hữu T lấy 200.000 đồng do bị cáo cho anh Nguyễn Thanh T1 nên đã dùng ly nhựa đánh vào đầu, dùng cổ chai thủy tinh rạch vào mặt và dùng dao đâm vào bụng anh Nguyễn Hữu T gây tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích cho anh Nguyễn Hữu Tài là 72%.
[3] Về tội danh: bị cáo là người thành niên, có năng lực trách nhiệm hình sự; chỉ vì nguyên cớ nhỏ nhen bị cáo đã dùng cổ chai thủy tinh và dao là hung khí nguy hiểm đâm bị hại gây tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích cho bị hại là 72%; bị cáo phạm tội với lỗi cố ý; hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sức khỏe của bị hại, gây mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Với ý thức, hành vi, nguyên nhân phạm tội, hung khí gây án và hậu quả do bị cáo gây ra, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo Lê Minh Th phạm “Tội cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung tăng nặng “Dùng hung khí nguy hiểm” và “Có tính chất côn đồ” theo điểm d khoản 4 (thuộc điểm a, i khoản 1) Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[4] Xét kháng cáo của bị cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt thấy rằng:
Tòa án cấp sơ thẩm khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo đã cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự; sau khi phạm tội bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho bị hại 5.000.000 đồng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo có nhân thân tốt, là lao động chính trong gia đình, có 02 con nhỏ, có người thân có công với đất nước nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo 08 năm tù; Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy chỉ vì nguyên cớ nhỏ nhen mà bị cáo đã lấy ly nhựa đánh vào đầu bị hại 01 cái làm bể ly, bị cáo tiếp tục lấy chai thủy tinh đập vỡ chai rồi cầm cổ chai rạch vào mặt bị hại, sự việc được mọi người can ngăn nhưng bị cáo không dừng lại mà trên đường về gặp lại bị hại thì bị cáo tiếp tục dùng dao đâm vào bụng bị hại; hậu quả gây ra cho bị hại thương tích thủng cơ hoành, thủng gan, thủng đại tràng; tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 171 - 620/TgT ngày 01/7/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bến Tre đã kết luận và xếp tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích cho bị hại là 72%. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, có 02 tình tiết định khung tăng nặng dùng hung khí nguy hiểm và có tính chất côn đồ, phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng có khung hình phạt tù từ 07 năm đến 14 năm; hành vi phạm tội của bị cáo đã gây nguy hiểm rất lớn cho xã hội, xâm hại đến sức khỏe của bị hại, thể hiện sự xem thường pháp luật và sức khỏe của con người. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo 08 năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và hậu quả do bị cáo gây ra; tại cấp phúc thẩm bị cáo không phát sinh thêm tình tiết giảm nhẹ mới. Xét thấy quyết định của Bản án sơ thẩm về mức hình phạt đối với bị cáo có căn cứ và đúng pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy không có căn cứ để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên không chấp nhận kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt của Bản án sơ thẩm đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.
[5] Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử.
[6] Về án phí: bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Về trách nhiệm hình sự:
Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Minh Th; giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 17/2021/HS-ST ngày 28/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre;
Áp dụng điểm d khoản 4 (thuộc điểm a, i khoản 1) Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Lê Minh Th 08 (tám) năm tù về “Tội cố ý gây thương tích”;
Thời hạn tù tính từ ngày 08/9/2020.
[2] Về án phí: căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Bị cáo Lê Minh Th phải nộp: 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 81/2021/HS-PT
Số hiệu: | 81/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về