Bản án về tội cố ý gây thương tích số 78/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 78/2021/HS-ST NGÀY 12/05/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 12 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 09/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2021/QĐXXST-HS ngày 02/4/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2021/QĐHPT ngày 19/4/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc K, sinh năm 2000 tại Ninh Thuận; Nơi cư trú: Khu phố 9, phường ĐH, TP. P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thái T, sinh năm 1968 và con bà Trần Thị Đ, sinh năm 1967. Vợ, con: chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21/8/2020, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (có mặt).

*Bị hại: Dương Văn B, sinh năm 1995 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Khu phố 10, phường ĐH, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

* Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Ngọc K1, sinh năm 1994 (có mặt) Nơi cư trú: Khu phố 9, phường ĐH, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

- Ông Dương Văn T1, sinh năm 1987 (vắng mặt) - Bà Trần Thị Ngọc L, sinh năm 1997 (vắng mặt) - Bà Tô Thị Minh B, sinh năm 1980 (vắng mặt) Cùng nơi cư trú: Khu phố 10, phường ĐH, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 30/4/2020, Nguyễn Ngọc K điều khiển xe mô tô đến khu phố 10, phường ĐH, thành phố P thì va vào tay anh Dương Văn B nên hai bên xảy ra mâu thuẫn, anh B dùng tay đánh gây thương tích ở vùng mí mắt trái K rồi cả hai đi về nhà. Sau đó, K kể lại sự việc trên cho anh Nguyễn Ngọc K1 (là anh trai K) nghe thì anh K1 điều khiển xe mô tô chở K đến nhà anh B để nói chuyện. Trước khi đi K tự ý xuống bếp nhà mình lấy 01 con dao thái lan cất giấu trong người và không cho anh K1 biết. Khi cả hai đến trước tiệm tạp hóa gần nhà anh B thì anh K1 nói K đứng ở ngoài trông xe để anh K1 đi vào nhà gặp anh B nói chuyện. Trong lúc nói chuyện giữa K1 và B xảy ra mâu thuẫn, anh K1 dùng tay đánh 01 cái trúng vào mặt anh B, anh B lấy 01 dao thái lan, phần lưỡi bằng kim loại màu trắng, dài khoảng 12 cm, cong vênh về bên phải; phần cán dao bằng gỗ, màu xám, có quấn dây cước xanh, dài khoảng 12 cm trong người ra đâm anh K1 nhưng không trúng. Lúc này, Dương Văn T (là anh trai B) đang ngồi phía trước nhà thấy sự việc nên chạy đến ôm phía sau anh K1 để can ngăn. Anh B tiếp tục dùng dao đâm thì bị anh K1 dùng tay giữ được, hai bên giằng co con dao làm anh K1 bị thương tích ở ngón cái tay trái. Vừa lúc này, K từ ngoài chạy vào, kéo anh K1 về sau rồi dùng tay trái lấy 01 con dao trong người ra, đâm 01 nhát theo hướng từ trên xuống, từ trái qua phải trúng vào vùng vai phải của anh B, gây thương tích rồi K, K1 bỏ chạy thì bị lực lượng Công an khống chế thu giữ con dao trên tay K và đồng thời thu giữ con dao trên tay B.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 70/TgT ngày 01/7/2020 của Trung tâm giám định y khoa – pháp y tỉnh Ninh Thuận kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Dương Văn B do thương tích gây nên hiện tại là 32%. Vết thương được thể hiện như sau:

- Vết thương vùng vai phải xương đòn sẹo liền phẳng mềm di động kích thước (3,8x0,2)cm, vận động tay phải hạn chế (02%).

- Vết dẫn lưu màng phổi kích thước (2x2)cm sẹo liền tốt (01%).

- Điện cơ thần kinh: Tổn thương dây thần kinh cơ bì (11%). Tổn thương thành cảm giác của dây thần kinh giữa 11% và dây thần kinh trụ bên phải 11% Cơ chế hình thành vết thương: Nhận định các tổn thương trên do vật sắc nhọn gây nên.

Vật chứng của vụ án: 01 dao thái lan, phần lưỡi bằng kim loại màu trắng, dài khoảng 10 cm, cong vênh về bên phải, phần cán dao bằng gỗ, màu xám, dài khoảng 12cm; 01 dao thái lan, phần lưỡi kim loại màu trắng, dài khoảng 12 cm, cong vênh về bên phải; phần cán dao bằng gỗ, màu xám, có quấn dây cước xanh, dài khoảng 12 cm.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên. Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung vụ án đã nêu.

Bị hại, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa được công bố lời khai, bị cáo không có ý kiến gì đối với những lời khai đó.

Cáo trạng số 15/CT-VKSPRTC ngày 18/01/2021 của Viện kiểm sát TP. P, truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc K về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 (điểm a khoản 1) Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân TP. P giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc K phạm tội “Cố ý gây thương tích”, áp dụng: Điểm c khoản 3 (điểm a khoản 1) Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 (người bị hại cũng có lỗi) Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc K từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo K phải bồi thường cho anh B số tiền còn lại 76.612.099 đồng theo yêu cầu của bị hại.

Bị cáo không tranh luận; Lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo xin lỗi bị hại; mong Hội đồng xét xử khoan hồng để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, lời khai của bị hại, một số người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 17 giờ 00 phút ngày 30/4/2020, tại khu phố 10, phường ĐH, TP. P, tỉnh Ninh Thuận bị cáo Nguyễn Ngọc K do có mâu thuẫn từ trước đã có hành vi dùng con dao thái lan, cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại đâm gây thương tích cho anh Dương Văn B. Hậu quả, anh Dương Văn B bị tổn thương cơ thể tỷ lệ 32%. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân TP. P truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc K về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 (điểm a khoản 1) Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội:

Bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi dùng dao thái lan là hung khí nguy hiểm đâm vào người khác có thể gây thương tích, tổn hại sức khỏe, thậm chí cả tính mạng của con người. Trong vụ án này, bị hại Dương Văn B là người có một phần lỗi do đã đánh bị cáo Nguyễn Ngọc K trước đó. Lẽ ra K có thể lựa chọn nhiều cách giải quyết mâu thuẫn giữa hai bên phù hợp với quy định của pháp luật nhưng bị cáo đã về nhà chuẩn bị con dao thái lan để mang theo nói chuyện cùng anh trai Nguyễn Ngọc K1, K không cho anh K1 biết việc mình đã chuẩn bị dao giấu trong người. Hậu quả, K đã dùng dao đâm 01 nhát vào vai phải của bị hại B gây thương tích 32%. Hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc K đã trực tiếp cố ý xâm hại đến sức khỏe của người khác, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy cần có hình phạt tương xứng đối với bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa từng có tiền án tiền sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi thực hiện xong hành vi phạm tội, bị cáo đã tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Mặt khác để xảy ra sự việc trên, bị hại cũng có một phần lỗi dẫn đến hậu quả thương tích xảy ra. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do đó, khi lượng hình hội đồng xét xử cũng cần xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Do bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Ngọc K.

[5] Đối với Nguyễn Ngọc K1: Quá trình điều tra xác định K1 không biết việc bị cáo K giấu một con dao trong người khi đi gặp bị hại B để nói chuyện. Giữa K1 và K không có sự bàn bạc, trao đổi về việc đánh gây thương tích cho anh B. Khi xảy ra xô xát giữa K1 và B, K ở bên ngoài chạy vào, dùng dao đâm thương tích cho B. Do đó K1 không đồng phạm với bị cáo K về hành vi cố ý gây thương tích là có căn cứ.

[6] Đối với Dương Văn B: đã dùng 01 con dao (là hung khí nguy hiểm) đâm gây thương tích cho anh Nguyễn Ngọc K1 và dùng tay đánh K gây thương tích. Do anh K1 và K từ chối giám định tỷ lệ thương tích nên Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý hình sự, chuyển hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền xử lý hành chính là có cơ sở.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra Bị hại Dương Văn B yêu cầu bị cáo K bồi thường tổng cộng số tiền là 91.612.099 đồng, Nguyễn Ngọc K và gia đình đã bồi thường cho bị hại số tiền 15.000.000 đồng, còn thiếu 76.612.099 đồng. Bị cáo K đồng ý tiếp tục bồi thường nhưng hiện tại chưa có khả năng thực hiện. Do đó buộc bị cáo Nguyễn Ngọc K phải bồi thường cho bị hại Dương Văn B số tiền còn lại là 76.612.099 đồng.

[8] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tạm giữ:

01(một) dao thái lan, phần lưỡi bằng kim loại trắng, dài khoảng 10 cm, cong vênh về bên phải, phần cán dao bằng gỗ, màu xám, dài khoảng 12 cm và 01 (một) dao thái lan, phần lưỡi bằng kim loại màu trắng, dài khoảng 12 cm, cong vênh về bên phải, phần cán dao bằng gỗ, màu xám, có quấn dây cước xanh, dài khoảng 12 cm. Đây là công cụ Nguyễn Ngọc K, Dương Văn B sử dụng để thực hiện hành vi gây thương tích nên Hội đồng xét xử xét thấy cần phải tịch thu, tiêu hủy.

[9] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm phù hợp với đề nghị của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[10] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ: điểm c khoản 3 (điểm a khoản 1) Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc K phạm tội “Cố ý gây thương tích”

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc K 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 21/8/2020.

Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) dao thái lan, phần lưỡi bằng kim loại màu trắng, dài khoảng 10cm, cong vênh về bên phải, phần cán dao bằng gỗ, màu xám, dài khoảng 12cm; 01 (một) dao thái lan, phần lưỡi bằng kim loại màu trắng, dài khoảng 12cm, cong vênh về bên phải, phần cán dao bằng gỗ, màu xám, có quấn dây cước xanh, dài khoảng 12cm.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/3/2021 giữa Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, Điều 586, Điều 590, Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Buộc Bị cáo Nguyễn Ngọc K phải bồi thường cho bị hại Dương Văn B số tiền còn lại là 76.612.099 đ (Bảy mươi sáu triệu sáu trăm mười hai ngàn không trăm chín mươi chín đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định đã có hiệu lực (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự 2015.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc K phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Nguyễn Ngọc K phải chịu 3.830.600 đ (ba triệu tám trăm ba mươi ngàn sáu trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 78/2021/HS-ST

Số hiệu:78/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về