Bản án về tội cố ý gây thương tích số 77/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 77/2022/HS-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 14 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 48/2022/TLST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2022/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Võ Viết T (tên gọi khác: không có), sinh năm 1996 tại tỉnh Bình Thuận; Nơi đăng ký HKTT: thôn 3, xã Đ, huyện T1, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn (văn hóa): Lớp 9/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn T2, sinh năm 1956 và bà Lê Thị Kim T3, sinh năm 1960, bị cáo có vợ tên Lê Thị N1, sinh năm 1999 và có 01 con sinh năm 2021; Tiền án: không, tiền sự: không; nhân thân tốt.

Bị cáo bị bắt giữ từ ngày 31/5/2021 theo Lệnh truy nã, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an huyện N (có mặt).

- Người bị hại: Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1992 (Vắng mặt). Nơi cư trú: ấp T4, xã T5, huyện H, tỉnh Đồng Tháp.

Chỗ ở hiện nay: ấp 3, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị N2, sinh năm 1994; Anh Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1986; Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1956.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 22/9/2019, Võ Viết T đến dự tiệc sinh nhật con trai của anh Nguyễn Văn K (sinh năm 1992), ngụ tại xã B, huyện H, tỉnh Đồng Tháp tại nhà trọ của ông Nguyễn Văn C thuộc ấp 3, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Trong buổi tiệc giữa T và anh Nguyễn Hoàng A (sinh năm 1986), ngụ tại xã H1, huyện T5, tỉnh Long An là anh vợ của anh K xảy ra mâu thuẫn và dẫn đến xô xát, thấy T bị đánh thì Đỗ Văn D (sinh năm 1980), ngụ tại xã Đ1, huyện Đ2, tỉnh Kiên Giang là bạn đi cùng T cũng lao vào đánh anh A. Được mọi người can ngăn, A, D đi về phòng trọ còn T thì đi ra ngoài ngồi trước cửa dãy phòng trọ. Lúc này, Trần Thị T6 (sinh năm 1985), ngụ tại xã Y, huyện Đ2, tỉnh Thái Nguyên cũng tạm trú tại dãy nhà trọ của ông Nguyễn Văn C là bạn gái của D đi làm về thì thấy T đang ngồi trước cửa dãy phòng trọ, gặp T6 T hỏi mượn T6 02 triệu đồng để T thuê người đánh A và nhờ T6 chở T đến chợ L thuộc ấp 1, xã L, huyện N, tại đây T gọi điện cho bạn của T. Khoảng 15 phút sau, có khoảng 10 nam thanh niên (chưa rõ nhân thân) cầm theo dao, mã tấu, cây dũ 03 khúc đi trên 05 xe máy đến chỗ T và T6 đang đứng chờ. Sau đó, T6 chở T dẫn nhóm thanh niên này về phòng trọ của anh K để tìm đánh anh A. Đến nơi, T cùng nhóm thanh niên cầm theo dao, mã tấu, cây dũ 03 khúc đi vào phòng trọ anh K. A thấy T cùng nhiều người mang theo dao, mã tấu nên bỏ trốn vào trong phòng trọ. Lúc này anh K cầm theo cây sắt chạy ra thì bị T và nhóm người T thuê cầm cây gỗ, dao, mã tấu, cây dũ 03 khúc đánh và chém nhiều nhát gây thương tích cho anh K. Sau đó, T và nhóm đối tượng bỏ đi, anh K được mọi người đưa đi cấp cứu.

Quá trình điều tra Võ Viết T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản kết luận giám định pháp y số: 1172/TgT/2019 ngày 26/12/2019 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Đồng Nai kết luận anh Nguyễn Văn K bị những thương tích sau:

- Sẹo vùng chẩm kích thước 5,5 x 0,2 cm. Tỷ lệ: 02%.

- Sẹo vùng trán đỉnh phải kích thước 06 x 0,2 cm. Tỷ lệ: 03%.

- Sẹo vùng đỉnh phải kích thước 05 x 0,2 cm. Tỷ lệ 02%.

- Sẹo thái dương trái kích thước 6,5 cm x 0,2 cm. Tỷ lệ: 03%.

- Sẹo hông lưng trái kích thước 5,5 cm x 0,5 cm. Tỷ lệ 02%.

- Sẹo long bàn tay trái kích thước 03 x 0,2 cm. Tỷ lệ 01%.

Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Nguyễn Văn K là 12%, vật gây ra thương tích cho anh K là vật sắc.

+ Vật chứng vụ án: Không thu giữ được.

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, đại D Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi phạm tội của bị cáo theo cáo trạng số 52/CT.VKS-NT ngày 10/3/2022 và đề nghị:

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 17; Điều 38; Điều 58; điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Võ Viết T mức án từ 30 tháng đến 36 tháng tù giam.

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo Võ Viết T đã bồi thường chi phí điều trị thương tích cho bị hại anh Nguyễn Văn K số tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng). Anh K đã làm đơn bãi nại không không thắc mắc, khiếu nại về sau.

Đối với đối tượng tên T và những đối tượng khác gây thương tích cho anh Nguyễn Văn K. Quá trình điều tra ban đầu, T khai thuê những đối tượng này tham gia đánh nhóm A và anh K. Tuy nhiên, tại các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung tại Cơ quan CSĐT T không thừa nhận việc T thuê người đánh anh K. Do chưa xác định được nhân thân, lai lịch của những đối tượng này nên Cơ quan CSĐT sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

Đối với Trần Thị T6. Quá trình điều tra ban đầu, T khai T6 cho T mượn 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) để thuê người đánh anh K và chở T đến phòng trọ của anh K. Tuy nhiên, tại các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung tại Cơ quan CSĐT T không thừa nhận mượn tiền của T6 để thuê người đánh anh K. Qua xác minh T6 đã bỏ đi khỏi địa phương nên chưa tiến hành làm việc được với T6, do đó Cơ quan CSĐT sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

Đối với Võ Viết Q. Quá trình điều tra ban đầu, T khai gọi điện cho Qcùng đi đến phòng trọ của anh K. Tuy nhiên, tại các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung tại Cơ quan CSĐT T lại khai Q không tham gia đi cùng với T đến phòng trọ của anh K. Qua xác minh Q đã bỏ đi khỏi địa phương nên chưa tiến hành làm việc được với Q, do đó Cơ quan CSĐT sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

Đối với Đỗ Văn D. Quá trình điều tra làm rõ, D không tham gia đánh anh K nên Cơ quan CSĐT không xử lý D là phù hợp với quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, bị cáo Võ Viết T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố tại bản Cáo trạng số 52/CT.VKS-NT ngày 10/3/2022. Bị cáo không tranh luận với bản luận tội của Viện kiểm sát và nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, tỉnh Đồng Nai, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai, Kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo Võ Viết T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai người bị hại cùng các tài liệu chứng cứ khác thu thập tại hồ sơ vụ án. Cho thấy: Vào khoảng 19 giờ ngày 22/9/2019, do mâu thuẫn cá nhân nên Võ Viết T và những thanh niên (chưa rõ nhân thân) có hành vi dùng gậy gỗ, dao, mã tấu và cây dũ 03 khúc đánh gây thương tích cho anh Nguyễn Văn K với tỷ lệ 12% tại phòng trọ của K ở ấp 3, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai thì bị phát hiện xử lý. Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đã cùng đồng phạm thực hiện hoàn thành xong hành vi phạm tội nên có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Võ Viết T đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên bản Cáo trạng số 52/CT.VKS-NT ngày 10/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố đối với bị cáo Võ Viết T là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Gia đình bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả cho người bị hại anh Nguyễn Văn K phù hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm bị cáo Võ Viết T cùng đồng phạm thực hiện là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ với anh Nguyễn Hoàng A, nhưng bị cáo không chủ động hòa giải nhằm tránh hậu quả xảy ra mà lại mượn của Trần Thị T6 số tiền 2.000.000 đồng để thuê người nhằm mục đích đánh trả thù anh A và đã gây ra thương tích cho anh K trong khi giữa bị cáo và anh K không hề mâu thuẫn. Cho thấy hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện mang tính chất côn đồ, khi phạm tội bị cáo đã cố tình bỏ trốn gây khó khăn cho công tác điều tra và tại phiên tòa khai báo quanh co, có thái độ không thành khẩn. Nghĩ cần xét xử mức án nghiêm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để nhằm cải tạo, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, giúp bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và cũng để răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy gia đình bị cáo đã khắc phục bồi thường thiệt hại cho người bị hại và được người bị hại làm đơn bãi nại phù hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng tình tiết giảm nhẹ nêu trên cho bị cáo khi lượng hình để nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật hình sự.

Xét đề nghị về mức hình phạt của đại D Viện kiểm sát nhân dân huyện N phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Đối với đối tượng tên T và những đối tượng khác gây thương tích cho anh Nguyễn Văn K. Quá trình điều tra ban đầu, T khai thuê những đối tượng này tham gia đánh nhóm A và anh K. Tuy nhiên, tại các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung tại Cơ quan CSĐT T không thừa nhận việc T thuê người đánh anh K. Do chưa xác định được nhân thân, lai lịch của những đối tượng này nên Cơ quan CSĐT sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau là có căn cứ.

Đối với Trần Thị T6. Quá trình điều tra ban đầu, T khai T6 cho T mượn 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) để thuê người đánh anh K và chở T đến phòng trọ của anh K. Tuy nhiên, tại các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung tại Cơ quan CSĐT T không thừa nhận mượn tiền của T6 để thuê người đánh anh K.

Qua xác minh T6 đã bỏ đi khỏi địa phương nên chưa tiến hành làm việc được với T6, do đó Cơ quan CSĐT sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau là có cơ sở.

Đối với Võ Viết Q. Quá trình điều tra ban đầu, T khai gọi điện cho Quốc cùng đi đến phòng trọ của anh K. Tuy nhiên, tại các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung tại Cơ quan CSĐT T lại khai Quốc không tham gia đi cùng với T đến phòng trọ của anh K. Qua xác minh Quốc đã bỏ đi khỏi địa phương nên chưa tiến hành làm việc được với Quốc, do đó Cơ quan CSĐT sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau là có căn cứ.

Đối với Đỗ Văn D. Quá trình điều tra làm rõ, D không tham gia đánh anh K nên Cơ quan CSĐT không xử lý D là phù hợp.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo đã bồi thường xong số tiền 15.000.000 đồng cho người bị hại anh Nguyễn Văn K, anh K đã làm đơn bãi nại và không thắc mắc, khiếu nại gì nên HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Võ Viết T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 326, 327 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Tuyên bố bị cáo Võ Viết T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

1. Hình phạt:

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 17; Điều 38; Điều 58; điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Võ Viết T (tên gọi khác: Không có) – 03 (ba) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 31/5/2021.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Buộc bị cáo Võ Viết T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 77/2022/HS-ST

Số hiệu:77/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về