TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
BẢN ÁN 74/2021/HS-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 30 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện D xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 69/2021/TLST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2021, đối với bị cáo:
Nguyễn Chí C, sinh năm 2000 tại Bến Tre; nơi cư trú: Ấp G, xã P, huyện D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 7/12; DA tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; có cha là Nguyễn Minh CH và mẹ là Mai Thị L; bị cáo có 01 người con sinh năm 2016 là con chung với chị Nguyễn Thị Huyền T (Không đăng ký kết hôn); bị cáo là con duy nhất trong gia đình.
Tiền án: Ngày 02/01/2019, bị Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án số 01/2019/HS-ST. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/5/2020.
Tiền sự: Ngày 30/10/2020, bị Trưởng Công an huyện D xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác tại Quyết định số 58/QĐ- XPVPHC ngày 30/10/2020, số tiền phạt 2.500.000 đồng (Đã nộp phạt).
Bị cáo bị bắt ngày 08/01/2021 trong vụ án “Tàng trữ trái phép chất ma túy” xảy ra ngày 08/01/2021 tại thị trấn PB, huyện D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện D. “Có mặt” Bị hại: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1999.
Địa chỉ: Tổ 7, ấp G, xã P, huyện D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. “Có mặt”
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Bà Mai Thị L, sinh năm 1970.
Địa chỉ: Ấp G, xã P, huyện D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. “Có mặt” Người làm chứng:
1. Anh Võ Trọng A, sinh năm 1999; địa chỉ: Tổ 7, ấp G, xã P, huyện D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. “Có mặt”
2. Anh Đào Thế V, sinh năm 1999; địa chỉ: Ấp 4, xã B, huyện D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. “Vắng mặt”
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Chí C, Nguyễn Văn D và Võ Trọng A là bạn bè; anh A và anh D còn là người làm thuê cho gia đình C ở vườn dưa. Trước đây anh D cho C vay 1.000.000 đồng và đã trả cho anh D, nhưng anh D lại kể chuyện này với người khác, C nghe nói lại việc mình vay tiền anh D nên tức giận, tìm anh D để đánh cảnh cáo. Sáng ngày 09/12/2020, C biết anh D đang làm thuê tại vườn dưa nhà mình ở Tổ 6, ấp G, xã P, C nhờ anh A dùng mô tô tới thị trấn PB chở C tới vườn dưa nhà mình. Trên đường đi C nói anh A ghé vào nhà C ở xã P, lúc này C vào nhà lấy một con dao tự chế dài khoảng 60cm giắt trước ngực, mặc áo khoác ở ngoài che lại và nói anh A chở C tới vườn dưa nhưng không nói cho anh A biết là tới đó để đánh anh D. Anh A chở C tới vườn dưa, khi còn cách chòi trông dưa khoảng 4,3m thì C ngồi sau xe quan sát thấy anh D đang làm việc ngoài vườn dưa cách chòi 23,5m, C nhảy xuống xe chạy tới cầm dao bằng hai tay chém thẳng vào người anh D theo hướng từ trên xuống dưới, anh D phát hiện đưa tay lên đỡ thì bị C chém trúng tay phải, sau đó C tiếp tục chém 03 nhát nữa vào tay anh D. Anh A nghĩ C làm rớt gì nên nhảy xuống xe nên tiếp tục chạy xe về phía chòi để cất, sau đó nghe tiếng la ngoài vườn dưa, khi anh A nhìn ra thì thấy C đi vào chòi rồi nói với mẹ mình là bà Mai Thị L và anh A đưa D đi cấp cứu, còn C bỏ trốn. Sau đó anh D được bà L và anh A đưa đi cấp cứu tại Trung tâm Y tế huyện D. Trên đường bỏ trốn C vứt dao gây án xuống sông thuộc khu vực cầu Ông Tô, xã P, huyện D. Sau đó C gặp anh Đào Thế Văn trên đường và nhờ anh V chở C về thị trấn PB.
Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 28/TgT ngày 28/01/2021 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận:
+ Dấu hiệu chính qua giám định: 04 sẹo nhỏ; 04 sẹo trung bình; gãy lồi cầu ngoài xương cánh tay + Gãy mỏm khuỷu xương trụ phải, vận động gập duỗi cẳng tay trong khoảng trên 50 đến 1450; tổn thương bán phần thần kinh trụ phải và gãy mỏm khuỷu xương trụ trái.
+ Vật gây thương tích: Các thương tích của nạn nhân phù hợp với tổn thương cơ bản là “vết chém hay băm bổ”, được gây ra do sự tác động của vật có diện rộng hoặc có trọng lượng lớn tác động với lực mạnh vào cơ thể như rựa, dao phay, búa, rìu… + Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là 44%.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại D yêu cầu C bồi thường 80.000.000 đồng. Bà L là mẹ C đã thay C bồi thường cho bị hại D số tiền 20.000.000 đồng, số tiền còn lại C đồng ý bồi thường nhưng chưa có tiền bồi thường cho anh D.
Về vật chứng: Hung khí gây án là con dao bằng kim loại dài khoảng 60cm, sau khi gây án C đã vứt xuống sông khu vực cầu Ông Tô, tại Tổ 6, ấp Ông Tô, xã P, huyện D. Cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng không thu giữ được.
Bản cáo trạng số 72/CT-VKS ngày 24/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D truy tố Nguyễn Chí C tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản Cáo trạng, đồng thời đã phA tích hành vi phạm tội của bị cáo, hậu quả xảy ra cũng như đặc điểm nhA thA của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố Nguyễn Chí C phạm tội “Cố ý gây thương tích”;
Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Chí C mức án từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị ghi nhận sự thỏa thuận của bị hại và bị cáo về việc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho bị hại số tiền còn lại là 60.000.000 đồng.
Về vật chứng vụ án: Không thu giữ được nên không đề nghị xem xét.
Tại phiên tòa bị cáo đồng ý với luận tội của Kiểm sát viên và không có ý kiến gì thêm.
Đối với anh Võ Trọng A là người C nhờ chở C tới vườn dưa ở xã P, huyện D và sau đó C dùng dao chém anh D thương tích, nhưng anh A không biết mục đích của C nhờ A chở tới vườn dưa để làm gì nên không xử lý hình sự đối với anh A.
Đối với anh Đào Thế V là người C gặp trên đường bỏ trốn và nhờ anh V chở tới thị trấn PB, nhưng anh V không biết trước đó C gây án, nên không xem xét trách nhiệm hình sự với anh V.
Bị cáo nói lời sau cùng: Trong thời gian bị tạm giam bị cáo rất ăn năn, hối cải về việc làm của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo được sớm trở về với gia đình và cộng đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Lời khai nhận của Nguyễn Chí C tại phiên tòa phù hợp với các tình tiết vụ án và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, xác định được:
Sáng ngày 09/12/2020, tại vườn dưa của gia đình C ở ấp G, xã P, huyện D, Nguyễn Chí C vô cớ dùng dao tự chế, lưỡi bằng kim loại, dài khoảng 60cm chém nhiều nhát thẳng vào người anh Nguyễn Văn D (Người làm công cho gia đình C ở vườn dưa), anh D đưa tay phải lên đỡ thì bị C chém trúng cánh tay, sau đó C tiếp tục chém anh D 03 nhát nữa trúng khuỷu tay, cổ tay và bàn tay hai bên, gây thương tích cho anh D với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 44%.
Khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự quy định “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
i) Có tính chất côn đồ” Khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự quy định “3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.” Nguyễn Chí C vô cớ dùng Dao tự chế là hung khí nguy hiểm chém bị hại thương tích là các tình tiết định khung quy định ở điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự. Nguyễn Chí C gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ tổn thương cơ thể của bị hại là 44%, vì vậy hành vi của C đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự.
[3]. Viện kiểm sát nhân dân huyện D truy tố Nguyễn Chí C tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
[4]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì coi thường pháp luật, coi thường sức khỏe của người khác nên cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo là người có nhA thA xấu, đã từng được đưa đi cải tạo giáo dục về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, sau khi chấp hành án xong trở về địa phương chỉ trong thời gian ngắn bị cáo nhiều lần có hành vi vi phạm pháp luật như xâm phạm sức khỏe người khác bị xử phạt hành chính, có hành vi đã bị truy tố trong vụ án khác và hiện nay đang bị tạm giam về hành vi tàng trữ trái pháp chất ma túy. Vì vậy, đối với bị cáo cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc nhằm răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại Bản án số 01/2019/HS-ST ngày 02/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt bị cáo 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 07/5/2020 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, đến ngày 09/12/2020 bị cáo tiếp tục phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại. Vì vậy, cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và xác định bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
[5]. Về trách nhiệm dân sự:
Bị hại D yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường thiệt hại số tiền còn lại là 60.000.000 đồng, bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại. Xét thấy sự thỏa thuận trên là tự nguyện và phù hợp quy định của pháp luật nên ghi nhận việc bị cáo C có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho bị hại D số tiền 60.000.000 đồng.
Bà Mai Thị L là mẹ C đã thay C bồi thường cho bị hại D số tiền 20.000.000 đồng, nhưng bà L không yêu cầu C trả lại số tiền này. Xét thấy đây là sự tự nguyện của bà L nên ghi nhận và dành quyền khởi kiện cho bà L đối với C bằng một vụ kiện dân sự khác nếu có yêu cầu.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ án phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[6]. Về xử lý vật chứng: Không thu giữ được nên không xem xét.
[7]. Đối với anh Võ Trọng A và anh Đào Thế V: Anh A được C nhờ chở vào vườn dưa nơi anh D đang làm việc ở đó, nhưng không biết mục đích C vào đó để làm gì. Trên đường bỏ trốn C gặp anh V và nhờ chở C tới thị trấn PB, nhưng anh V không biết trước đó C gây án. Do đó không xem xét trách nhiệm hình sự với anh A và anh V là phù hợp.
[8]. Án phí:
Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Tại cơ quan điều tra bị cáo đã đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại nên thỏa thuận này được xem là trước khi mở phiên tòa nên bị cáo không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Nguyễn Chí C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
- Áp dụng điểm c Khoản 3 Điều 134; Điều 38; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Xử phạt Nguyễn Chí C: 08 (Tám) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/01/2021.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 246 Bộ luật tố tụng dân sự.
Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo Nguyễn Chí C và bị hại Nguyễn Văn D về việc bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm.
Bị cáo Nguyễn Chí C có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho anh Nguyễn Văn D số tiền 60.000.000 đồng (Sáu mươi triệu đồng).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Buộc Nguyễn Chí C phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Nguyễn Chí C không phải chịu án phí dA sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 74/2021/HS-ST
Số hiệu: | 74/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về