TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 49/2024/HS-PT NGÀY 26/03/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 26 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 225/2023/TLPT-HS ngày 27/10/2023 đối với bị cáo Ma Hy H, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 13/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Đ.
* Bị cáo kháng cáo:
Họ và tên: Ma Hy H, sinh năm 1996 tại N; hộ khẩu thường trú: thôn GH, xã Ma Nới, huyện Ninh Sơn, tỉnh N; nghề nghiệp: Làm nông; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Ra Glay; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 7/12; con ông La Bá C và con bà Ma Hy Thị L; vợ: Pi Năng Thị N; con: Có 02 người, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2016; tiền án: Không; tiền sự: Không.
Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chăn cấm đi khỏi nơi cư trú. Vắng mặt.
Trong vụ án này, còn có các bị cáo khác và bị hại không kháng cáo, vụ án không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào sáng ngày 19/01/2023, Ma Hy H và một số người bạn đi vào rừng bẫy gà. Khi đi qua khu vực rừng trồng của công ty TNHH V thuộc tiểu khu 329 thuộc địa giới hành chính xã Ka Đô, huyện Đơn Dương, tỉnh Đ thì xảy ra mâu thuẫn với ông Phạm Văn P là quản lý của công ty TNHH V, lúc này H nói với mọi người tối đi đánh ông P. Đến tối cùng ngày trong lúc ngồi uống bia tại nhà Ta Pố Xi Ni thì Ma Hy H rủ Tà Yên L, Pi Năng V, Pi Năng S ở cùng thôn tập trung tại sân bóng chuyền để cùng nhau đánh ông P thì mọi người đồng ý. Khi đi V cầm theo một con dao dài khoảng 60cm - 70cm, S cầm theo 01 con dao dài khoảng 30cm - 40cm. Trên đường đi thì gặp Ta Thía Quốc ở cùng thôn nên H rủ Quốc đi cùng, khi cả nhóm của H đi đến khu vực gần công ty TNHH V thì nhóm của H dừng lại chặt một số cành cây keo cầm theo. Khi đến công ty V thì H nhìn thấy ông P đang ngồi uống nước ở bàn phía trước hiên cùng một số người khác. Lúc này Ma Hy H, Tà Yên L, Pi Năng V, Pi Năng S cùng nhau xông đến vị trí ông P đang ngồi giơ dao, gậy đánh về phía ông P. Thấy vậy ông P bỏ chạy vào nhà thì H, L, V cầm dao, gậy đuổi đánh ông P gây thương tích. Còn S đuổi đánh ông Trần Xuân Q. Hậu quả: Phạm Văn P bị thương ở đầu, xây xát da vùng mào chậu trái, Trần Xuân Q bị thương ở phần mềm.
Tại kết luận giám định số 153/23-KLTTCT-PYLĐ ngày 07/4/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ xác định ông P bị các vết thương: sẹo đỉnh đầu 6cm; sẹo mào chậu trái 3cm. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định của Phạm Văn P là 05%. Tổn thương do vật sắc gây nên.
Cáo trạng số 46/CT-VKS-ĐD ngày 18/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đơn Dương truy tố các bị cáo Ma Hy H, Tà Yên L, Pi Năng V, Pi Năng S về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 13/09/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương đã xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Ma Hy H 12 (Mười hai) tháng tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Pi Năng S 09 (Chín) tháng tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Pi Năng V 09 (Chín) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của các bị cáo tính từ ngày bắt thi hành án.
Áp dụng khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Tà Yên L 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án.
Ngoài ra, bản án còn xử lý vật chứng, tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 18/9/2023, bị cáo Ma Hy H kháng cáo xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vắng mặt không có lý do, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ. Tuy nhiên, đơn kháng cáo bị cáo không thắc mắc, khiếu nại nội dung bản án sơ thẩm, khai nhận hành vi như bản án sơ thẩm đã xét xử và xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ đề nghị, bị cáo vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, việc vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự, xét xử vắng mặt bị cáo và áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Cơ quan tiến hành tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Đơn kháng cáo của bị cáo đúng về hình thức, nội dung, trong hạn luật định nên kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, nên đủ cơ sở để Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Bị cáo đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, bị cáo vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, việc vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự, xét xử vắng mặt bị cáo theo thủ tục chung.
[3] Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đơn kháng cáo của bị cáo, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi như bản án sơ thẩm quy kết. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo khác, người bị hại, người làm chứng, kết luận giám định về pháp y cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Xuất phát từ lời qua tiếng lại giữa Ma Hy H và bị hại Phạm Văn P vào ngày 19/01/2023, đến tối cùng ngày, Ma Hy H đã rủ Tà Yên L, Pi Năng V và Pi Năng S đến tại tiểu khu 329 thuộc địa giới hành chính xã Ka Đô, huyện Đơn Dương, tỉnh Đ nơi bị hại sinh sống, dùng hung khí nguy hiểm là dao, cây keo gây thương tích cho ông Phạm Văn P gồm vết thương ở đầu và vùng mào chậu trái với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 05%.
Bị hại Phạm Văn P có đơn yêu cầu khởi tố vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử các bị cáo Ma Hy H, Tà Yên L, Pi Năng V và Pi Năng S phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Xét kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt thấy rằng; Bản án sơ thẩm đã xem xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, tự nguyện khắc phục hậu quả, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xem xét vai trò, tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội để xử phạt bị cáo mức án 12 tháng tù là phù hợp. Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới, bị cáo là chủ mưu, rủ rê các bị cáo khác đánh bị hại. Do vậy, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị hại không kháng cáo, ngày 12/10/2023 bị hại Phạm Văn P có đơn đề nghị không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của Ma Hy H và tăng hình phạt đối với các bị cáo khác nhưng không có căn cứ, Hội đồng xét xử không chấp nhận, nội dung bị hại thắc mắc Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương áp dụng Điều 173 Bộ luật Hình sự thì Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương đã có thông báo sửa chữa, bổ sung phần này nên cấp phúc thẩm không xem xét đến.
[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 351; điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ma Hy H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tuyên bố bị cáo Ma Hy H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Ma Hy H 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Ma Hy H phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 49/2024/HS-PT
Số hiệu: | 49/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về