Bản án về tội cố ý gây thương tích số 395/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 395/2022/HS-ST NGÀY 13/09/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 13 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 369/2022/HSST ngày 17/8/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 394/QĐXXST-HS ngày 26/8/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Khắc Hữu Đ; Tên gọi khác: Không Giới tính: Nam; Sinh năm: 1996; Nơi sinh: tỉnh Đồng Nai.

Hộ khẩu thường trú tại: 26/45, khu phố 8, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: Không có nơi cư trú rõ ràng Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Lớp 07/12.

Họ tên cha: Phan Khắc P, sinh năm 1972 (Còn sống); Họ tên mẹ: Khổng Thị Q, sinh năm 1974 (Còn sống); Bị cáo là con duy nhất trong gia đình.

Vợ con: Không có. Tiền án:

- Ngày 30/8/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xử phạt 10 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

- Ngày 11/9/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

- Quyết định tổng hợp hình phạt số 05/QĐ.THHP, ngày 18/10/2017 của Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai buộc Phan Khắc Hữu Đan phải chấp hành hình phạt chung là 19 tháng tù giam; Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/01/2019.

- Ngày 25/3/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 08 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự (Trộm cắp tài sản dưới 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng)).

Chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/5/2021.

Tiền sự: không có.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/4/2022, đến ngày 30/4/2022 chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 535/LTG ngày 30/4/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

- Bị hại:

1/Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1989 Địa chỉ: 4/120, tổ 29A, khu phố 6, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

2/Trường Mầm non T, thành phố B.

Người đại diện theo pháp luật: bà Nguyễn Thị Thanh H – Hiệu trưởng trường Mầm non T (Bị cáo có mặt; bị hại có mặt; bà H có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 19/4/2022, Đ sử dụng xe mô tô nhãn hiệu HonDa Vision màu xanh, biển số 60B9-249.16 đi từ phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai đến nhà người quen tại khu phố 11A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai chơi. Khi đi đến Công viên 30/4 thuộc phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Đ gặp H (không rõ nhân thân, lai lịch) là bạn cùng chơi game của Đ, H rủ Đ đến cửa hàng điện thoại gần chợ Phúc Hải để mua điện thoại nhưng do cửa hàng đông người nên Đ rủ H đến nhà người quen tại phường T, thành phố B chơi thì H đồng ý. Đ điều khiển xe mô tô biển số 60B9-249.16 chở H đi vào đường nội bộ cư xá Phúc Hải. Đến khoảng 17 giờ 15 phút cùng ngày, khi đi ngang qua nhà chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1989, địa chỉ 4/120, tổ 29A, khu phố 6, phường T, thành phố B, phát hiện cửa cổng mở, trên bàn để ở sân nhà chị S đặt một chiếc túi xách bên trong đựng số tiền 21.908.000 đồng (hai mươi mốt triệu chín trăm linh tám nghìn đồng), một chiếc điện thoại di động Iphone 8, một giấy đăng ký xe và một giấy phép lái xe mô tô của chị S không có người trông coi. H rủ Đ quay lại trộm cắp tài sản trên thì Đ đồng ý. Đ điều khiển xe mô tô quay lại, dừng trước cổng nhà, H xuống xe đi vào trong lén lút lấy chiếc túi xách rồi lên xe Đ đang chờ sẵn tẩu thoát về hướng phường T, thành phố B. Trên đường đi H chia cho Đ 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) là tiền trộm cắp được có trong túi xách, số tiền còn lại cùng chiếc điện thoại Iphone 8 thì H cất giữ, chiếc túi xách H đã vứt bỏ trên đường (không rõ địa điểm). Sau đó, Đ chở H quay lại Công viên 30/4, H xuống xe còn Đ đi về phường T, thành phố B để chơi. Số tiền trộm cắp có được Đ đã tiêu xài cá nhân hết.

Qua rà soát, Công an phường T, thành phố B xác định được Phan Khắc Hữu Đ là người điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HonDa Vision, biển số 60B9- 249.16 chở đối tượng H thực hiện hành vi phạm tội nên đưa Đ cùng chiếc xe mô tô trên về trụ sở để làm việc. Sau đó, lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B xử lý theo thẩm quyền. Tại cơ quan điều tra, Phan Khắc Hữu Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

* Vật chứng vụ án gồm:

Xe mô tô nhãn hiệu HonDa Vision màu xanh, biển số 60B9-249.16 là tài sản của bà Khổng Thị Q (mẹ bị can Đ). Bà Q không biết Đ sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện phạm tội, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại xe cho bà Quyết.

Tại Kết luận định giá tài sản số 151/KL-HĐĐGTS ngày 27/4/2022, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận: 01 điện thoại di động Iphone 8 có giá trị là 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng); Đối với chiếc túi xách do không rõ nhãn hiệu, model nên không đủ cơ sở để định giá.

Về dân sự:

Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị S chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 21.908.000 đồng (Hai mươi mốt triệu, chín trăm linh tám nghìn đồng) Tại bản cáo trạng số 393/CT-VKSBH ngày 17/8/2022, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B đã truy tố bị cáo Phan Khắc Hữu Đ khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo Phan Khắc Hữu Đ về tội “Trộm cắp tài sản” với mức án từ 20 tháng tù giam đến 24 tháng tù giam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phan Khắc Hữu Đ thừa nhận: Khoảng 17 giờ 15 phút ngày 19/4/2022, tại địa chỉ 4/120, tổ 29A, khu phố 6, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Phan Khắc Hữu Đ cùng đối tượng tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) có hành vi trộm cắp của chị Nguyễn Thị S một chiếc túi xách, bên trong túi có số tiền 21.908.000 đồng (Hai mươi mốt triệu, chín trăm linh tám nghìn đồng) và 01 chiếc điện thoại di động Iphone 8 có giá trị là 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng), tổng giá trị tài sản Đ và đồng bọn chiếm đoạt là 25.908.000 đồng (Hai mươi lăm triệu, chín trăm linh tám nghìn đồng).

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ.

Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phan Khắc Hữu Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân thành phố B đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Phan Khắc Hữu Đ là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp tài sản của người khác là khách thể được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Bản thân bị cáo Đ là một người đã trưởng thành, có nhận thức, có đủ sức khỏe để tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình. Nhưng vì muốn có tiền tiêu xài, mà không phải bỏ sức lao động, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của bị hại trong việc quản lý tài sản, cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại. Bị cáo có tiền án, chưa được xóa án tích, không lấy đó làm bài học, tu dưỡng, rèn luyện bản thân, mà tiếp tục phạm tội thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy, cần thiết phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng: bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm” (quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự).

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bà Nguyễn Thị S chỉ yêu cầu bồi thường số tiền 21.908.000 đồng (Hai mươi mốt triệu, chín trăm linh tám nghìn đồng). Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường số tiền 21.908.000 đồng cho bà S nên hội đồng xét xử ghi nhận.

[7] Xe mô tô nhãn hiệu HonDa Vision màu xanh, biển số 60B9-249.16 là tài sản của bà Khổng Thị Q (mẹ bị cáo Đ). Bà Q không biết Đ sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện phạm tội, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại xe cho bà Q là phù hợp.

Đối với đối tượng tên H, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B xác minh làm rõ xử lý sau.

[8] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và số tiền 1.095.400 đồng án phí Dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Phan Khắc Hữu Đ phaïm toäi “Trộm cắp tài sản”.

Xöû phaït: Bị cáo Phan Khắc Hữu Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 22/04/2022.

Về phần dân sự: áp dụng Điều 468; 584; 585 Bộ luật Dân sự;

Buộc bị cáo Phan Khắc Hữu Đ phải bồi thường số tiền 21.908.000 đồng (Hai mươi mốt triệu, chín trăm linh tám nghìn đồng) cho bà Nguyễn Thị S.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên thi hành án phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 Quyết định này được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Phan Khắc Hữu Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm và số tiền 1.095.400 đồng (một triệu không trăm chín mươi năm nghìn, bốn trăm đồng) tiền án phí Dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 395/2022/HS-ST

Số hiệu:395/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về