TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 36/2022/HS-PT NGÀY 01/08/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong các ngày 29/7/2022 và 01/8/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 44/2022/TLPT-HS ngày 27 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo Trịnh Ngọc V, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2022/HS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Bị cáo có kháng cáo:
Trịnh Ngọc V, sinh ngày 16/8/1974 tại huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang;
Nơi cư trú: Thôn K, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/10, dân tộc: Sán dìu; con ông Trịnh Hưng V1 và bà Trần Thị Thanh T (đã chết); có vợ Lê Thị Hồng V (đã ly hôn) và có 02 con. Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 27/3/1999 bị TAND tỉnh Tuyên Quang xử phạt 04 tháng tù về tội đánh bạc, phạt tiền 1.000.000 đồng, án phí hình sự sơ thẩm 50.000 đồng (Bản án số 28/1999/HSPT). Ngày 08/7/2009 chấp hành xong toàn bộ bản án.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11/01/2022 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt tại phiên tòa).
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn Tú, ông Nguyễn Công Quyền - Luật sư Công ty Luật TNHH IMC, thuộc Đoàn Luật sư T phố Hà Nội. Địa chỉ: Phòng 1809, Tòa 27A2 Green Stars, 234 Phạm Văn Đồng, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, T phố Hà Nội (có mặt).
- Bị hại: Anh Đặng Đình M, sinh năm 1990;
Nơi cư trú: Thôn Đ, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang (có mặt).
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Giang Văn T, sinh năm 1988;
Nơi cư trú: Thôn P, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; (có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Những người làm chứng:
1. Anh Vũ Anh T, sinh năm 1989 (có đơn xin xét xử vắng mặt);
2. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1963 (có mặt);
Cùng cư trú tại: Thôn K, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tháng 6/2020, anh Giang Văn T thuê nhà của ông Trịnh Hưng V1 ở Thôn K, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang để mở quán bán hàng ăn và bán vịt quay. Khoảng đầu tháng 11/2021 ông V1 thấy anh T mua trâu về thịt tại quán nên có nói với anh T không đồng ý cho giết mổ trâu ở sân quán nhưng anh T vẫn làm.
Sáng ngày 15 tháng 11 năm 2021 ông Trịnh Hưng V1 và bị cáo Trịnh Ngọc V đi chợ qua cửa hàng ăn của anh Giang Văn T, thấy anh T buộc 01 con trâu trước cửa quán để chuẩn bị mổ. Ông V1 và V vào nhắc nhở T không được thịt trâu tại quán, hai bên xảy ra to tiếng nói nhau xong ông V1 và V đi về.
Khoảng 17 giờ cùng ngày V đi xe máy Airblade của ông V1 đến quán của anh T nói anh T về việc không buộc trâu ở quán vì mất vệ sinh, hai bên xảy ra to tiếng cãi nhau, anh T dùng tay đấm V 01 (một) nhát trúng vào vùng mặt trái, V dùng chiếc chìa khóa xe mô tô (có đặc điểm dài 8cm, đầu nhọn, dẹt bằng kim loại, chuôi nhựa đen) đâm phần đầu nhọn trúng vào vùng bẹn phải làm rách quần bò, xước da vùng bẹn phải của T.
T chạy ra ngoài khu vực ngã tư K, V đuổi theo không kịp, bị ngã thì quay lại quán. Lúc này anh Đặng Đình M trong quán đi ra thấy V nhìn mình thì hỏi “Sao anh nhìn em, em có làm gì anh đâu”, V không nói gì, anh M sợ quá bỏ chạy ra đường, V đuổi theo, được khoảng 3 - 4 m anh M bị ngã ra đường thì V dùng chìa khóa đâm phần đầu nhọn bằng kim loại trúng mặt trong đùi trái làm rách quần bò và rách da dài 5cm, rỉ máu ở đùi trái anh M. Lúc này có anh Vũ Anh T đứng cách đó khoảng 1m chứng kiến toàn bộ sự việc.
Sau đó anh T về quán cầm gậy sắt (cán ô dài 1m, đường kính 03cm) sang vụt nhiều nhát về phía V trúng vào vùng hạ sườn bên trái đường nách giữa, bờ trên xương cánh chậu bên phải V. V chạy vào nhà anh Nguyễn Tiến T ở ven đường, sự việc chấm dứt.
* Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 174/2021/TgT ngày 07 tháng 12 năm 2021 của Trung tâm pháp y, kết luận đối với Giang Văn T: vết sây sát da nông ở vùng bẹn phải, tại thời điểm giám định đã khỏi, không để lại sẹo, tỷ lệ tổn thương 0%.
* Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 175/2021/TgT ngày 07 tháng 12 năm 2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Tuyên Quang, kết luận đối với Đặng Đình M:
1/3 giữa mặt trong đùi trái có vết thương đang liền sẹo, kích thước 7cm x 0,3cm, hướng từ trước ra sau, từ trên xuống dưới, bờ mép sắc gọn, tổn hại 02%. Thương tích do vật sắc tác động trực tiếp gây nên.
* Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 182/2022/TgT ngày 12 tháng 01 năm 2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Tuyên Quang, kết luận đối với Trịnh Ngọc V: tổn thương da, không để lại sẹo để lại vết biến đổi rối loạn sắc tố da bờ trên xương cánh chậu bên phải, tổn hại 0,5% làm tròn số 01%. Thương tích do vật tày tác động trực tiếp gây nên.
* Tại kết luận giám định số 02/KLGĐ ngày 28 tháng 01 năm 2022 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực miền núi phía Bắc kết luận đối với Trịnh Ngọc V:
1. Trịnh Ngọc V bị bệnh Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng nhiều loại ma túy và sử dụng các chất tác động tâm thần khác giai đoạn khỏi bệnh.
2. Tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 15 tháng 11 năm 2021 Trịnh Ngọc V bị bệnh Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng nhiều loại ma túy và sử dụng các chất tác động tâm thần khác giai đoạn khỏi bệnh, đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi.
3. Hiện tại Trịnh Ngọc V bị bệnh Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng nhiều loại ma túy và sử dụng các chất tác động tâm thần khác giai đoạn khỏi bệnh, đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2022/HS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang đã quyết định:
Căn cứ vào điểm a, i khoản 1 Điều 134; khoản 2 Điều 51; Điều 38; 30; 48 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Trịnh Ngọc V phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Xử phạt bị cáo Trịnh Ngọc V 07 (Bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 11/01/2022).
Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Trịnh Ngọc V có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại sức khỏe cho bị hại anh Đặng Đình M tổng số tiền là 6.581.000 đồng (Sáu triệu năm trăm tám mươi mốt nghìn).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 24 tháng 5 năm 2022 bị cáo Trịnh Ngọc V có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trịnh Ngọc V thay đổi nội dung kháng cáo cho rằng bị oan, bị đánh trong thời gian bị tạm giam, bị ép viết đơn rút yêu cầu khởi tố đối với Giang Văn T.
Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang phát biểu quan điểm:
Về thủ tục tố tụng đảm bảo đúng quy định pháp luật, đơn kháng cáo của bị cáo hợp lệ trong hạn luật định; thủ tục giải quyết vụ án đúng trình tự tố tụng.
Về nội dung: Khoảng 17 giờ ngày 15 tháng 11 năm 2021 tại Thôn K, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Trịnh Ngọc V có hành vi vô cớ dùng chiếc chìa khóa xe mô tô dài 08cm bằng kim loại, đầu nhọn, dẹt, sáng, chuôi nhựa đâm phần đầu nhọn bằng kim loại trúng vào phần giữa mặt trong đùi trái anh Đặng Đình M, gây thiệt hại cho anh M 02% sức khỏe.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết liên quan đến vụ án trên cơ sở các tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ để xét xử bị cáo Trịnh Ngọc V 07 (Bảy) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho bị hại là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không xuất trình tài liệu, chứng cứ mới cho nội dung kháng cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trịnh Ngọc V, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2022/HS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị hại Đặng Đình M trình bày: Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm bị cáo không thể hiện sự ăn năn hối cải, khai báo quanh co, anh khẳng định thương tích 2% trên cơ thể anh là do bị cáo gây nên phù hợp với kết luận giám định, vì vậy anh đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên Bản án sơ thẩm để thể hiện tính nghiêm minh nhằm giáo dục bị cáo và có tính phòng ngừa tội phạm.
Các Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày luận cứ bào chữa:
- Đơn rút yêu cầu khởi tố của bị cáo đối với Giang Văn T là không khách quan, do bị ép buộc, bởi lẽ ngay từ quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo vẫn tiếp tục đề nghị xem xét lại nội dung này.
- Đối với kết luận giám định thương tích của bị hại Đặng Đình M là không khách quan, bởi vì: Vết thương không phù hợp với vật gây thương tích, không phù hợp với vết rách để lại trên quần của bị hại.
- Không thu giữ được vật chứng là chiếc chìa khóa, không có tài liệu thể hiện chiếc chìa khóa là vật sắc nhọn gây nên vết thương.
- Việc khám nghiệm hiện trường không khách quan.
- Lời khai của người làm chứng và bị hại không khách quan, mâu thuẫn, mỗi lúc khai một khác.
Từ những luận cứ trên các Luật sư cho rằng hồ sơ còn nhiều điều bất cập, không khách quan, không chính xác, do đó không đủ căn cứ kết tội bị cáo phạm tội Cố ý gây thương tích. Vì vậy, các Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử: Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại và trả tự do ngay cho bị cáo tại phiên tòa.
Bị cáo nhất trí lời bào chữa của Luật sư và bổ sung: Trong thời gian bị tạm giam bị cáo bị nhiều cán bộ đánh từ đêm cho đến sáng; bị cáo bị ép viết đơn rút yêu cầu khởi tố đối với Giang Văn T, bị cáo đề nghị xem xét xử lý hình sự đối với T.
Lời nói sau cùng bị cáo cho rằng mình bị oan, không gây thương tích cho anh M, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét toàn diện vụ án một cách khách quan, đúng pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trịnh Ngọc V không thừa nhận hành vi gây thương tích cho anh Đặng Đình M, bị cáo cho rằng bị oan, không được đuổi đánh anh M. Tuy nhiên, sau khi được Hội đồng xét xử trình chiếu video có thời lượng 01 phút 11 giây được thu thập từ camera giám sát an ninh của Công an xã H, huyện Sơn Dương bị cáo thừa nhận hình ảnh trong video đúng là bị cáo, thừa nhận hình ảnh trong đoạn video thể hiện đúng diễn biến sự việc. Bị hại M và người làm chứng Nguyễn Thị H cũng thừa nhận hình ảnh trong đoạn video được Hội đồng xét xử trình chiếu là đúng diễn biến sự việc; ngoài ra căn cứ vào lời khai người làm chứng Tạ Văn T, Lê Thị H đều khai có nhìn thấy bị cáo dùng vật gì đó đâm vào vùng bẹn của bị hại; anh Vũ Anh T khai tại BL 236 đến 240 thể hiện: “...Sau khi V đuổi anh M, M ngã thì V dùng tay phải cầm vật gì đó bằng kim loại đâm nhiều nhát vào người M...sau đó V xòe tay ra thì tôi mới biết V dùng chìa khóa có tổng chiều dài khoảng 08cm đến 10cm để đâm anh M...”. Như vậy, có thể thấy rằng sự việc diễn ra lúc khoảng 17 giờ ngày 15/11/2021 tại Thôn K, xã H, huyện Sơn Dương chỉ có một mình bị cáo bị cáo đuổi anh M, dẫn đến anh M bị ngã rồi bị cáo có hành vi dùng chiếc chìa khóa đâm trúng vào phần giữa mặt trong đùi trái dẫn đến gây thương tích cho anh M, ngoài ra không có ai khác gây thương tích cho anh M. Do vậy lời khai của bị cáo không thừa nhận hành vi gây thương tích cho anh M và kêu oan là không có căn cứ.
Căn cứ và các chứng cứ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17 giờ ngày 15 tháng 11 năm 2021 tại Thôn K, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Trịnh Ngọc V có hành vi vô cớ dùng chiếc chìa khóa xe mô tô dài 08cm bằng kim loại, đầu nhọn, dẹt, sáng, chuôi nhựa đâm phần đầu nhọn bằng kim loại trúng vào phần giữa mặt trong đùi trái anh Đặng Đình M, gây tổn hại cho anh M 02% sức khỏe.
[2] Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sức khoẻ của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xét xử 04 tháng tù về tội Đánh bạc nhưng không lấy đó làm bài học để cải tạo, tu dưỡng, rèn luyện mà còn tiếp tục có hành vi gây thương tích cho anh Đặng Đình M, giữa bị cáo và anh M không có mâu thuẫn nhưng bị cáo cố ý dùng chìa khóa để gây thương tích cho anh M nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội Cố ý gây thương tích với tình tiết dùng hùng khí nguy hiểm và có tính chất côn đồ là có căn cứ.
Ngoài ra, theo tài liệu trong quá trình điều tra thể hiện trong thời gian bị cáo bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Sơn Dương, bị cáo đã có hành vi xúi giục, kích động người bị tạm giam, tạm giữ nói xấu cán bộ, không chấp hành nội quy nhà tạm giữ. Điều đó thể hiện bị cáo không ăn năn hối cải về hành vi của mình, có ý thức coi thường pháp luật nên thấy cần phải xử lý nghiêm.
[3] Xét kháng cáo kêu oan, bị cáo cho rằng bị cáo bị đánh trong khi bị giam, bị ép viết đơn không khởi tố đối với Giang Văn T. Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không xuất trình được tài liệu, chứng cứ mới chứng minh cho nội dung kháng cáo bị đánh trong khi bị giam, ngoài các tài liệu đã nộp tại Tòa án cấp sơ thẩm;
Căn cứ quy định tại khoản 1, 3 Điều 155 Bộ luật Tố tụng Hình sự thì chỉ được khởi tố vụ án về tội cố ý gây thương tích khi có yêu cầu khởi tố của bị hại và bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không được yêu cầu lại trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc. Tại biên bản làm việc giữa Cơ quan cảnh sát điều tra với bị cáo ngày 08/02/2022 (BL 194) và buổi làm việc giữa Tòa án với bị cáo ngày 29/3/2022 có sự chứng kiến của Kiểm sát viên và người làm chứng anh Nguyễn Văn C, bị cáo đều xác định việc viết đơn không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với anh T là do bị cáo tự nguyện viết, không bị ép buộc. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khẳng định đơn không yêu cầu khởi tố đối với anh T do chính bị cáo tự viết và tự ký, ngoài ra không có căn cứ nào khác. Xét nội dung này đã được Tòa án cấp sơ thẩm làm rõ, tại cấp phúc thẩm không có tình tiết nào mới nên không có căn cứ cho rằng bị cáo bị ép buộc viết đơn không yêu cầu khởi tố đối với Giang Văn T.
Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, Tòa án nhận được 01 đơn xác nhận do bố đẻ bị cáo là ông Trịnh Hưng V1 gửi, có nội dung người đứng đơn là Đặng Hoàng L, địa chỉ thôn Lõng Khu, xã Sơn Nam, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang là người bị giam nhốt cùng buồng giam với bị cáo V nên được chứng kiến tận mắt bị cáo bị cán bộ công an hình sự Sơn Dương tên là Vũ Anh Tuấn bắt ký giấy không khởi tố cho anh T, bị cáo không ký thì bị anh Vũ Anh Tuấn mạ nhục và đánh một cách rất tàn bạo. Lần sau công an hình sự Trịnh Cao Khánh cũng vào đánh bắt bị cáo ký vào giấy miễn truy tố cho anh T. Tuy nhiên, tại phiên tòa bị cáo khai bị cáo không được làm việc với anh Trịnh Cao Khánh, chỉ có cán bộ điều tra Lù Đình Long vào bắt bị cáo ký khống vào 01 tờ giấy trắng (chưa ghi nội dung gì trên giấy), bị cáo không ký thì sau đó 02 ngày vào buổi tối, bị cáo bị cán bộ nhà tạm giữ tên Tuấn đánh đập, việc đánh đập có anh Long, anh Chức người giam chung với bị cáo tận mắt chứng kiến. Địa điểm và thời gian bị đánh bị cáo khai có nhiều mâu thuẫn nhau, khi thì tại buồng giam số 3 nơi giam bị cáo, khi thì tại sân chim, khi thì tại buồng giam số 4; thời gian khi thì ngày 09 tháng 02 năm 2022, khi thì ngày 10 tháng 02 năm 2022.
Căn cứ kết quả xác minh của Tòa án thể hiện tại nhà tạm giữ có 01 cán bộ tên Nguyễn Anh Tuấn; bị cáo V bị giam tại buồng giam số 02, anh Đặng Hoàng L và Nông V1ăn Chức bị giam tại buồng giam số 3. Như vậy Đặng Hoàng L không giam chung buồng với bị cáo V, việc Long cho rằng được chứng kiến cán bộ công an Vũ Anh Tuấn bắt ký giấy không khởi tố cho anh T; Trịnh Cao Khánh đánh bắt bị cáo ký vào giấy miễn truy tố cho anh T là không có cơ sở, nội dung này cũng đã được Tòa án cấp sơ thẩm làm rõ, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có căn cứ nào mới chứng minh nên không có cơ sở xem xét.
Xét mức án Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Trịnh Ngọc V 07 (Bảy) tháng tù về tội Cố ý gây thương tích và buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh M là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, không oan. Do vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp pháp luật.
[4] Về luận cứ bào chữa của Luật sư: Hội đồng xét xử xét thấy:
- Về nội dung bị cáo cho rằng bị ép viết đơn không khởi tố đối với Giang Văn T: Ngày 28/01/2022 bị cáo V đã có đơn yêu cầu không khởi tố vụ án hình sự, không yêu cầu khởi tố bị can đối với anh T (BL 193), trong đơn bị cáo viết “tôi viết đơn này do tôi tự nguyện, không bị ai ép buộc, đe dọa”. Tại biên bản hỏi cung hồi 08 giờ 30 ngày 08/02/2022 (BL 369, 370) bị cáo khai: Đơn yêu cầu không khởi tố vụ án hình sự, không khởi tố bị can đối với T là do bị cáo tự viết và ký, việc viết đơn là tự nguyện không bị ai ép buộc, đe dọa và trong trạng thái hoàn tỉnh táo, minh mẫn. Tại biên bản làm việc hồi 10 giờ ngày 08/02/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Sơn Dương (BL 194) bị cáo V trình bày đơn yêu cầu không khởi tố đối với T là do bị cáo tự nguyện viết không bị ai ép buộc, đe dọa.
+ Tại biên bản làm việc hồi 14 giờ 45 phút ngày 29/3/2022 của TAND huyện Sơn Dương (BL 470) đối với bị cáo V thể hiện: Tại buổi làm việc bị cáo có quan điểm không yêu cầu khởi tố đối với T, bị cáo đã có đơn giao nộp cho Cơ quan điều tra, việc viết đơn là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc (cuối biên bản làm việc bị cáo tự viết tôi đã nghe đọc lại công nhận nội dung là đúng và ký ghi họ tên).
+ Tại Biên bản làm việc ngày 12/7/2022 của Luật sư Nguyễn Văn Tú và Nguyễn Công Quyền, đối với bị cáo V trình bày: Giấy miễn truy tố cho anh T do bị cáo tự viết và ký. Tuy nhiên bị cáo cho rằng do cán bộ Long đọc cho viết, nhưng không đưa ra được căn cứ chứng minh.
Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự thì chỉ được khởi tố vụ án về tội Cố ý gây thương tích ở khoản 1 Điều 134 khi có yêu cầu của bị hại. Bị cáo V không có đơn yêu cầu khởi tố đối với anh T, do đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương không khởi tố đối với Giang Văn T là đúng quy định của pháp luật. Hành vi của anh T đã được Công an huyện Sơn Dương ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định.
- Luật sư cho rằng: Kết luận giám định thương tích của bị hại Đặng Đình M là không khách quan, bởi vì: Vết thương không phù hợp với vật gây thương tích, không phù hợp với vết rách để lại trên quần của bị hại: Căn cứ vào Bản kết luận pháp y về thương tích số 175/2021/TgT ngày 07/12/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Tuyên Quang đối với Đặng Đình M (BL số 82 - 83) kết luận: 1/3 giữa mặt trong đùi trái có vết thương đang liền sẹo, kích thước (7x0,3)cm. Hướng từ trước ra sau, từ trên xuống dưới bờ mép sắc gọn. Vết thương đùi trái như mô tả sẽ để lại sẹo có kích thước tương ứng 02%. Cơ chế, vật gây thương tích là do vật sắc tác động trực tiếp gây nên. Như vậy, cơ quan tiến hành tố tụng xác định có hành vi phạm tội của bị cáo và căn cứ vào mức độ tổn hại sức khỏe của bị hại đã được kết luận giám định để làm căn cứ khởi tố, truy tố, xét xử bị cáo. Trong quá trình giải quyết vụ án bị cáo không có ý kiến khiếu nại về kết luận giám định thương tích của bị hại nên Luật sư cho rằng kết luận giám định thương tích của bị hại không khách quan là không có căn cứ.
- Luật sư cho rằng: Không thu giữ được vật chứng là chiếc chìa khóa, không có tài liệu thể hiện chiếc chìa khóa là vật sắc gây nên vết thương nên không đủ căn cứ xác định bị cáo dùng chiếc chìa khóa để gây thương tích cho bị hại: Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan điều tra đã đến nhà bị cáo làm việc yêu cầu gia đình bị cáo giao nộp chiếc chìa khóa xe mô tô nhưng gia đình không hợp tác, bố bị cáo là ông Trịnh Hưng V1 chỉ cho chụp ảnh lại chiếc chìa khóa (BL 55, 56) nên Cơ quan điều tra đã thực hiện xác minh, nhận dạng. Căn cứ biên bản nhận dạng vật chứng ngày 17/12/2021 (BL số 58-61), anh Vũ Anh T xác nhận chìa khóa xe mô tô do cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương chụp ảnh tại nhà ông V1 là chìa khóa anh nhìn thấy trên tay V khi đâm anh M, do vậy xác định hung khí bị cáo sử dụng vào việc phạm tội là chiếc chìa khóa của xe mô tô Airblade Biển kiểm soát 22S1 - 21841 đã được Cơ quan điều tra chụp ảnh vật chứng tại nhà ông Trịnh Hưng V1.
- Luật sư cho rằng việc khám nghiệm hiện trường không khách quan: Sau khi xảy ra sự việc ngày 24/11/2021 Cơ quan điều tra Công an huyện Sơn Dương thực hiện khám nghiệm hiện trường, việc khám nghiệm hiện trường được mô tả và có đầy đủ T phần tham gia, có vẽ sơ đồ cụ thể nên không V1i phạm thủ tục tố tụng, do đó Luật sư cho rằng việc khám nghiệm không khách quan là không có căn cứ.
- Luật sư cho rằng lời khai của người làm chứng Vũ Anh T và lời khai bị hại không khách quan, mâu thuẫn, mỗi lúc khai một khác: Tại phiên tòa phúc thẩm bị hại khai phù hợp với diễn biến sự việc, phù hợp với đoạn video được Hội đồng xét xử trình chiếu. Ngoài lời khai của người làm chứng Vũ Anh T còn nhiều lời khai của người làm chứng khác khai nhìn thấy bị cáo đâm bị hại, do đó có đủ căn cứ và tài liệu khác để chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo.
Từ những phân tích nêu trên Hội đồng xét xử thấy rằng không có căn cứ chấp nhận đề nghị của Luật sư về việc Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại và trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo.
[5] Về hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[6] Bị cáo Trịnh Ngọc V phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trịnh Ngọc V, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2022/HS-ST ngày 20 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang như sau:
1. Căn cứ: Điểm a, i khoản 1 Điều 134; khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trịnh Ngọc V 07 (Bảy) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam (ngày 11/01/2022).
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 357, 584, 585, 586, 590 Bộ luật Dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo Trịnh Ngọc V có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại sức khỏe cho bị hại anh Đặng Đình M tổng số tiền là 6.581.000 đồng (Sáu triệu năm trăm tám mươi mốt nghìn).
Kể từ khi Bị hại M có đơn yêu cầu thi hành án, bị cáo V chậm bồi thường thì còn phải chịu lãi của số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
3. Về án phí: Bị cáo Trịnh Ngọc V phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm và 329.000 đồng (Ba trăm hai mươi chín nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (01/8/2022)./
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 36/2022/HS-PT
Số hiệu: | 36/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về