Bản án về tội cố ý gây thương tích số 35/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 35/2021/HS-ST NGÀY 10/08/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 10 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 34/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 6 năm 2021 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 82A ngày 26 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Đỗ Văn N, sinh năm 1987, nơi sinh: thành phố L, tỉnh An Giang; nơi cư trú: ấp G, xã L, huyện T, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm Thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 03/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn L (Đã chết) và bà Huỳnh Thị N (Đã chết); vợ là Nguyễn Thị N, sinh năm 1982, có 03 người con, lớn nhất 2007, nhỏ nhất sinh năm 2019.

Tiền án: không. Tiền sự: không.

Nhân thân: Từ nhỏ sống chung cha mẹ, đi học đến lớp 03 nghỉ, lớn lên làm thuê sinh sống.

Bị cáo Đỗ Văn N bị tạm giam từ ngày 01/5/2021 cho đến này, tại nhà tạm giữ - Công an huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1992; địa chỉ cư trú: ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; có văn bản xin vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1982; địa chỉ cư trú: ấp G, xã L, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Nguyễn Văn D; vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Thị Mỹ H; vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Văn T; vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Thị N; vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Hoàng G; vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Văn T; vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Phú Q; vắng mặt.

+ Nguyễn Thị Thu T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 01/5/2021, sau khi uống rượu say Nguyễn Thanh T đến nhà Nguyễn Văn T tại ấp K, xã K, huyện C, tỉnh An Giang (cách nhà T khoảng 300m) để hỏi về việc người dân nói T lấy trộm gà của T. Khi đến T không có mặt ở nhà mà chỉ thấy Đỗ Văn N (con rể của T); Nguyễn Văn T (con ruột của T); Nguyễn Hoàng G; Trần Văn N; Trần Văn T đang ngồi uống bia. Sau đó thì T nói chuyện với T, thì hai bên xảy ra cự cãi, xô đẩy lẫn nhau thì được Nguyễn Văn D; Nguyễn Thị Mỹ H (cha mẹ ruột của T) căn ngăn. Ít phút sau T tiếp tục trở lại tiệm tạp hóa của T cãi cự với gia đình ông T thì Nguyễn Thị Thu T đến căn ngăn thì bị quơ tay trúng vùng mặt trái. Sau đó, T về nhà nhặt 01 khúc gỗ dài khoảng 01m cầm trên tay phải đến nhà T để đánh T. Lúc này N thấy T cầm khúc gỗ đi lại và cự cãi với T. Vì sợ T gây hại cho những người trong gia đình, N lấy cây cưa nước đá bằng kim loại để sẵn tại quán, N cầm trên tay phải chạy đứng đối diện chém nhiều cái từ trên xuống trúng vào vùng đầu, vai, cánh tay phải, tay trái của T làm T ngã xuống bờ kênh, rồi N bỏ đi về nhà. Riêng T được D, H đưa đến trung tâm Y tế huyện Chợ Mới cấp cứu, điều trị, đến ngày 06/5/2021 T ra viện. Sau khi gây án Tú đến Công an xã K đầu thú.

Vật chứng thu giữ: 01cây cưa dài 74cm, phần cán kích thước (21x5)cm lưỡi kích thước (53x7)cm.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số 195/21/TgT ngày 17/5/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang, đối với Nguyễn Thanh T: Sẹo đỉnh trái kích thước (3x0,2)cm; sây sát rải rác vùng cổ sau bên phải, không tồn tại thương tích; sây sát vai phải để lại vết biến đổi sắc tố da kích thước (4x0,2)cm; sẹo không liên tục 1.3 trên trước ngoài cánh tay phải kích thước (10x0,5)cm; sây sát không liên tục mặt trước ngoài 1/3 dưới cánh tay phải đến 1/3 trên cẳng tay phải, không tồn tại thương tích; sẹo không liên tục mặt sau cánh tay trái kích thước (16x0,5)cm; seo mặt sau trong 1/3 giữa cẳng tay trái kích thước (11x0,3)cm; 05 sẹo mặt sau 1/3 giữa cẳng tay trái đến mu bàn tay trái(từ trên xuống) kích thước (6x0,2)cm + (5,5x0,2)cm + (5x0,3)cm + (5x0,2)cm + (3x0,1)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 13%.

Tại bản Cáo trạng số 32/CT-VKSCM ngày 24 tháng 6 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Đỗ Văn N về tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Đỗ Văn N (Ốc) về tội Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s, e khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt: bị cáo Đỗ Văn N từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù; Về vật chứng: đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 cây cưa dài 74cm, phần cán kích thước (21x5)cm lưỡi kích thước (53x7)cm; Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã được Nguyễn Thị N (vợ của N) bồi thường 5.678.648đồng chi phí điều trị thương tích nên không yêu cầu bồi thường thêm, xin giảm nhẹ cho N.

Tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Văn N thừa nhận thực hiện hành vi cố ý gây thương tích như Cáo trạng truy tố, xin được giảm nhẹ hình phạt.

Người bị hại: Đã được Nguyễn Thị N (vợ của N) bồi thường 5.678.648đồng chi phí điều trị thương tích nên không yêu cầu bồi thường thêm về dân sự, xin giảm nhẹ cho N.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các chứng cứ, tài liệu cũng như kết quả điều tra của Cơ quan điều tra và bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, thể hiện: Đỗ Văn N đã dùng cây cưa kim loại chém gây thương tích cho Nguyễn Thanh T. Kết luận giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 13%. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Cố ý gây thương tích như đã viện dẫn ở trên. Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng hành vi của bị cáo nhận thấy: Bị cáo là người đã thành niên có đầy đủ nhận thức, lẽ ra phải chấp hành đúng quy định của pháp luật, phải biết kiềm chế bản thân; bị cáo tỏ ra hung hăng, dùng dùng cây cưa kim loại chém để gây thương tích cho người bị hại, cho thấy hành vi của bị cáo là cố ý phạm tội và nguy hiểm. Hành vi đó cần phải nghiêm trị để có đủ thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội, biết tôn trọng pháp luật và tính mạng, sức khỏe của người khác.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đỗ Văn N có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; bồi thường thiệt hại, khắc phục hiệu quả, người bị hại có đơn xin bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo đã đầu thú, bị cáo phạm tội trong trường hợp bị kích động mạnh về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[4.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về vật chứng: 01cây cưa dài 74cm, phần cán kích thước (21x5)cm lưỡi kích thước (53x7)cm là công cụ phạm tội nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.

[6] Về dân sự: Bị hại đã được Nguyễn Thị N (vợ của N) bồi thường 5.678.648 đồng chi phí điều trị thương tích nên không yêu cầu bồi thường thêm, xin giảm nhẹ cho Nhớ.

[8] Bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s, e khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn N phạm tội Cố ý gây thương tích . Xử phạt: Bị cáo Đỗ Văn N 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam ngày 01 tháng 5 năm 2021 (Mồng một tháng năm năm hai nghìn không trăm hai mươi mốt)

2. Về dân sự: Đã được Nguyễn Thị N (vợ của N) bồi thường 5.678.648đồng chi phí điều trị thương tích nên không yêu cầu bồi thường thêm.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu huỷ: 01cây cưa dài 74cm, phần cán kích thước (21x5)cm lưỡi kích thước (53x7)cm. (Hiện vật chứng do Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/7/2021).

4. Về án phí: Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, khoản Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Đỗ Văn N phải chịu 200.000đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 35/2021/HS-ST

Số hiệu:35/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về