Bản án về tội cố ý gây thương tích số 28/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 28/2022/HS-PT NGÀY 26/01/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 26 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 372/2021/TLHS-PT ngày 30/12/2021 đối với bị cáo Nông Văn B. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 03/2021/HS-ST, ngày 20/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đ.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nông Văn B - sinh năm 1991, tại tỉnh Cao Bằng. Nơi cư trú: Thôn 11, xã C, huyện E, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 02/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam. Con ông Nông Quốc L1, sinh năm 1947 và con bà Nông Thị Q, sinh năm 1966; Bị cáo có vợ là Dương Thị T, sinh năm 1993; bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: Không.

Về nhân thân: Ngày 01/02/2010 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đ xử phạt 09 tháng tù về tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”.

Bị cáo đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – Vắng mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Nông Văn B: Ông Ngô Đình K – Trợ giúp viên thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đ. Có mặt.

- Người bị hại: Anh Đinh Xuân L, sinh năm 1992. Vắng mặt Trú tại: Thôn 4A, xã C, huyện E, tỉnh Đ.

Ngoài ra, trong vụ án còn có 01 bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 30/9/2020, Đinh Xuân L cùng vợ là chị Ngô Thị Bích N đi đến quán chị Trần Thị Đ, thuộc thôn 03, xã C, huyện E, tỉnh Đ để dự tiệc liên hoan chia tay bạn.

Trong khi dự tiệc liên hoan, Đinh Xuân L có lời qua tiếng lại với Ngô Văn V, nên V dùng tay đấm 1 cái trúng vào mặt của Đinh Xuân L nhưng không gây thương tích gì. Sau đó, Đinh Xuân L đi đến bàn của Triệu Thanh H mời rượu, do tức giận vì thấy Đinh Xuân L mâu thuẫn với Ngô Văn V (V là bạn của H) nên H đã dùng tay đấm 1 cái trúng vào má trái của Đinh Xuân L làm chảy máu, sau đó được mọi người can ngăn nên sự việc kết thúc.

Đinh Xuân L liền bỏ đi về phòng trọ tại thôn 4, xã C, huyện E, tỉnh Đ của mình ngủ. Sau khi Định Xuân L đi về, Nguyễn Văn B1 là bạn của Ngô Văn V đi đến gặp chị Ngô Thị Bích N (chị N là vợ của Đinh Xuân L) để nói chuyện và dẫn Ngô Văn V sang phòng trọ của gia đình chị N hòa giải. Nghe vậy, chị Ngô Thị Bích N đồng ý và đi về phòng trọ trước.

Đến khoảng 21 giờ 50 phút cùng ngày, Nguyễn Văn B1 và Ngô Văn V đi sang phòng trọ của Đinh Xuân L. Khi đến phòng trọ của Đinh Xuân L thì B1 và V gặp chị N và chị Trần Thị Kim L, đang ngồi chơi phía trước. V và B1 đi vào và ngồi nói chuyện với chị N một lúc, thì Đinh Xuân L đang ngủ thức dậy, nghe tiếng nói của Ngô Văn V, đang bực tức về việc bị Ngô Văn V đấm vào mặt mình nên L cầm 01 con dao, mở cửa chạy ra. Thấy Đinh Xuân L cầm 01 con dao trên tay, V sợ, nên đứng dậy đi lùi ra phía ngoài đường thì bị trượt chân ngã ngửa xuống đất, L cầm dao lao đến vung dao để chém Ngô Văn V, V nằm ngửa dùng chân đạp vào bụng và đùi của Đinh Xuân L (nhưng không gây thương tích), nên Đinh Xuân L không chém trúng Ngô Văn V. Ngay lúc này Triệu Thanh H và Nông Văn B đang đi trên đường về nhà thấy Đinh Xuân L đang đánh Ngô Văn V (do Ngô Văn V là bạn thân của Triệu Thanh H và Nông Văn B) H nhặt 01 cây gậy gỗ vuông, dài khoảng 01 mét ở gần đó, H cầm gậy chạy đến đánh 01 cái trúng vào mặt của Đinh Xuân L gây thương tích. Tiếp đó Nông Văn B, chạy vào lấy 01 chiếc ghế nhựa ở phía trước dãy nhà trọ, B cầm ghế nhựa đánh 01 cái trúng vào mặt L làm chảy máu.

Trong lúc H, B đánh L thì Nguyễn Văn B1 đến đỡ V đứng dậy, khi đứng dậy được V thấy H và B đang đánh Đinh Xuân L nên cũng cầm lấy 01 cán dù che mưa bằng kim loại để trước dãy nhà trọ định đến đánh Đinh Xuân L nhưng được mọi người can ngăn nên không đánh được. Đinh Xuân L liền bỏ chạy đi nơi khác.

Lúc này Nguyễn Hữu H1 đi cùng với vợ là chị Đàm Thị D, trên đường đi về nghe tiếng ào, nên chạy đến, rồi nhặt một đoạn cây gậy gỗ ý định đuổi đánh Đinh Xuân L nhưng Đinh Xuân L đã bỏ chạy, nên sự việc kết thúc. Đinh Xuân L sau đó được gia đình đưa đi cấp cứu.

Bản kết luận giám định pháp y số: 1136/TgT-TTPY, ngày 02/11/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ, kết luận: Đinh Xuân L: Vết thương trán trái, kích thước dài 02cm; vết thương cung mày trái, kích thước 02cm; vết thương má trái, kích thước 01cm; vết thương mặt trong môi, kích thước 0,5cm; gãy xương chính mũi; gãy khuyết 1/2 thân răng 11, 21, 12. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích (qua hồ sơ) là: 20%. Vật tác động: Vật tày, cứng và vật tày có cạnh.

Bản kết luận giám định pháp y bổ sung (trên hồ sơ) số: 96/TCT-TTP, ngày 07/01/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ kết luận: Đinh Xuân L: Vết thương trán trái, kích thước dài 02cm, tỷ lệ: 3%; vết thương cung mày trái, kích + KAlthước 02cm, tỷ lệ 3%; vết thương má trái, kích thước 01cm, tỷ lệ 3%; gãy xương chỉnh mũi, tỷ lệ 7%; gãy khuyết 1/2 thân răng 11, tỷ lệ: 2%; gãy khuyết 1/2 thân răng 21, tỷ lệ 2%; gãy khuyết , thân răng 12, tỷ lệ 2%. Riêng vết thương mặt trong môi (không được tính tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể). Tổng tỷ lệ 22%. Cơ chế hình thành vết thương: Vết thương trán trái; Vết thương cung mày trái; Vết thương má trái: Không đủ cơ sở, dữ liệu để xác định cơ chế hình thành thương tích. Gãy xương chính mũi: Vật tày, cứng tác động trực tiếp từ hướng trước ra sau. Gãy khuyết ½ thân răng 11, 12, 21: Vật tày có cạnh tác động trực tiếp hướng từ trước ra sau.

Quá trình điều tra, đã xác định thương tích tại má trái, tỷ lệ: 03% của Đinh Xuân L là do bị Triệu Thanh H dùng tay đánh gây ra tại quán chị Trần Thị Đ vào tối ngày 30/9/2020. Thương tích còn lại của Đinh Xuân L là do Triệu Thanh H và Nông Văn B dùng gậy gỗ và ghế nhựa đánh gây thương tích tại trước quán phòng trọ của anh L.

Tại công văn số 287 ngày 05/10/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ phúc đáp công văn số 198 ngày 20/8/2021 của Công an huyện E kết luận: Tổng hợp lại tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích của Đinh Xuân L. Sau khi loại tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của thương tích: vết thương má trái 3% là 18%.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HS-ST ngày 20/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đ đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nông Văn B phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nông Văn B: 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định tội danh, hình phạt của bị cáo Triệu Thanh H, về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo, kháng nghị theo quy định pháp luật.

Ngày 29/10/2021, bị cáo Nông Văn B kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo đối với bị cáo.

Về tố tụng: Đại diện Viện kiểm sát cho rằng bị cáo Nông Văn B có đơn xin hoãn phiên tòa nhưng lý do hoãn không chính đáng. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự để xét xử vắng mặt bị cáo.

Về nội dung: Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nông Văn B và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù mà cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt.

- Người bào chữa cho bị cáo B phát biểu quan điểm bào chữa:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo B thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Đã bồi thường cho người bị hại, được người bị hại làm đơn bãi nại cho bị cáo, được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống nơi có điều kiện kinh tế khó khăn nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Bị cáo B có bố là người có công với cách mạng. Do đó, đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm là phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 50 phút, ngày 30/9/2020 tại thôn 4, xã C, huyện E. Triệu Thanh H dùng 01 cây gỗ vuông, dài khoảng 01m và Nông Văn B dùng một chiếc ghế nhựa gây thương tích cho Đinh Xuân L với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 18%. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nông Văn B về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo Nông Văn B, Hội đồng xét xử xét thấy:

Bị cáo biết sức khỏe của con người là vốn quý được pháp luật bảo vệ. Mọi hành vi xâm hại đến sức khỏe của con người phải được nghiêm khắc trừng trị. Hành vi phạm tội của bị cáo không những đã xâm hại tới sức khỏe của người khác mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Chính vì vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo việc cải tạo giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội. Tòa án Cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo mc hình phạt 01 năm 06 tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt.

[3] Về án phí phúc thẩm: Bị cáo B là người dân tộc thiểu số sinh sống nơi có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, có đơn xin miễn án phí. Nên cần áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 để miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 351, điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

[1] Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nông Văn B – Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2021/HS-ST ngày 20/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đ.

[2] Về điều luật áp dụng và hình phạt:

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nông Văn B: 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nông Văn B không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 28/2022/HS-PT

Số hiệu:28/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về