Bản án về tội cố ý gây thương tích số 25/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 25/2024/HS-ST NGÀY 02/04/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

 Trong ngày 02 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 13/2024/HSST ngày 16 tháng 2 năm 2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

20/2024/HSST-QĐ ngày 05 tháng 3 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lê Văn Th; Tên gọi khác: Không có;

Giới tính: Nam; Sinh năm 1971;

Nơi thường trú: Thôn Bến L, xã Quang T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang;

Nơi ở hiện tại: Tổ dân phố S, thị trấn K, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Văn hóa: 12/12;

Họ và tên bố: Lê Trọng T (đã chết);

Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị V, sinh năm 1947; Gia đình có 05 chị em, bị cáo là thứ tư;

Vợ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1975;

Bị cáo có 03 người con, con lớn sinh năm 1995, con nhỏ sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không có.

Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (Có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Nguyễn Thị T; Tên gọi khác: Không có;

Giới tính: Nữ; Sinh năm 1975;

Nơi cư trú: Tổ dân phố S, thị trấn K, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do;

Văn hóa: 7/12;

Họ tên bố: Nguyễn Hồng Th (đã chết);

Họ tên mẹ: Phan Thị Ph, sinh năm 1944;

Gia đình có 05 chị em, bị cáo là thứ ba; Chồng: Lê Văn Th, sinh năm 1971;

Bị cáo có 03 người con, con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự, nhân thân: Không có.

Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (Có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại: Anh Nguyễn Ngọc Ng, sinh năm 1973; địa chỉ: TDP Sậm, TT Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang (Có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1974; địa chỉ: TDP Sậm, TT Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang (Có mặt tại phiên tòa).

* Người làm chứng:

- Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1977; địa chỉ: TDP 3, TT Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang (Vắng mặt).

- Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1970; địa chỉ: TDP Sậm, TT Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang (Vắng mặt).

- Chị Trần Thị Ng, sinh năm 1968; địa chỉ: TDP Sậm, TT Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang (Vắng mặt).

- Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1982; địa chỉ: TDP Sậm, TT Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 40 phút ngày 29/9/2023, tại khu vực trước cửa nhà Nguyễn Thị T ở Tổ dân phố Sậm, thị trấn Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang do có mâu thuẫn từ trước nên giữa Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Ngọc Ng có xảy ra xô xát, cãi chửi nhau do đó T chạy vào trong nhà cầm ra một ống kim loại dài 1,05m, đường kính 03cm, một đầu có gắn một thanh kim loại kích thước (5,2 x 1,8)cm (là chân của chiếc ô của gia đình) vụt về phía người anh Ng nhưng anh Ng dùng tay trái đỡ được, T tiếp tục chửi anh Ng thì anh Ng dùng tay phải tát một cái vào vùng thái dương trái của T, T cầm ống kim loại vụt về phía anh Ng nhưng anh Ng dùng tay trái giữ được ống kim loại rồi dùng tay phải đấm một phát vào vùng thái dương trái của T khiến T ngã xuống đường, anh Ng vẫn cầm ống kim loại trên tay. Lúc này, Th(là chồng T) từ trong nhà đi ra thấy vợ mình và anh Ng đang đánh nhau nên chạy ra và lấy được ống kim loại anh Ng đang cầm, Thdùng hai tay cầm ống kim loại vụt một phát theo hướng từ trái sang phải trúng vào miệng anh Ng khiến anh Ng bị thương chảy máu, anh Ng bị mất đà lùi về phía sau, Thtiếp tục dùng ống kim loại vụt một cái trúng vùng lưng trái anh Ng, T thấy thế chạy đến dùng tay đánh vào lưng anh Ng. Sau đó, Thvà anh Ng ru đẩy nhau ra mặt đường Quốc lộ 1A, anh Ng dùng tay phải đấm về phía Thnhưng Thcúi đầu tránh được khiến anh Ng mất đà ngã xuống mặt đường. Lúc này, Th và T cùng xông vào dùng chân đạp nhiều cái vào người anh Ng. Sau đó, anh Ng đứng dậy giằng co ống kim loại với Thịnh, anh Ng dùng tay đấm nhiều cái vào người và đầu Thịnh. Một lúc sau hàng xóm xung quanh và người dân đi đường thấy nên đã vào can ngăn để hai bên dừng lại và giằng ống kim loại vứt ra chân cột điện ở gần đó. Sau đó, vợ anh Ng là bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1974 đã nhặt ống kim loại mang về để làm bằng chứng.

Hồi 13 giờ ngày 30/9/2023, anh Ng đến Công an thị trấn Kép trình báo sự việc mình bị gây thương tích và giao nộp 01 đoạn ống kim loại sáng màu, hình tròn, có chiều dài 1,05m, đường kính 03cm, một đầu có gắn một thanh kim loại kích thước (5,2 x 1,8)cm là hung khí mà Thvà T dùng đánh anh Ng.

Hồi 17 giờ 40 phút ngày 30/9/2023, Công an thị trấn Kép tiến hành trích xuất, thu giư 01 đoạn video dài 07 phút 14 giây của camera an ninh của gia đình Nguyễn Thị T, ghi lại diễn biến sự việc cố ý gây thương tích nêu trên.

Ngày 06/10/2023, Công an thị trấn Kép đã bàn giao hồ sơ vụ việc cùng vật chứng cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Lạng Giang để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 03/12/2023, bị hại Nguyễn Ngọc Ng có đơn yêu cầu khởi tố vụ án, khởi tố bị cáo đối với Lê Văn Th và Nguyễn Thị T.

Tại Bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 45/KLTTCT-PY ngày 22/11/2023 của Viện Pháp y Quân đội- Bộ Quốc phòng, kết luận thương tích của anh Nguyễn Ngọc Ng: Gãy thân răng R4.1, tỷ lệ 2%; gãy thân răng R4.2, tỷ lệ 2%; gãy thân răng hàm lớn R4.6, tỷ lệ 2,5%; 02 sẹo vết thương vùng dưới môi phải, mỗi sẹo tỷ lệ 3%; 02 sẹo vết thương niêm mạc miệng bên phải, mỗi sẹo 1%; 02 vết thay đổi màu sắc da vùng lưng trái, mỗi vết tỷ lệ 0,5%. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 15%. Cơ chế, vật gây thương tích: Các chấn thương do tác động của vật tày có diện giới hạn gây nên (hung khí đã thu giữ). Vật gửi giám định (01 ống kim loại sáng màu, hình trụ, dài 1,05m, đường kính 03cm, một đầu có gắn một thanh kim loại kích thước (5,2x1,8)cm) có thể gây nên được các thương tích trên đối với anh Nguyễn Ngọc Ng.

Tại Bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 1863/23/KLTTCT-TTPY ngày 10/11/2023 của Trung tâm Pháp y - Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang có, kết luận thương tích của bà Nguyễn Thị T: Chạm thương vùng chẩm trái không còn dấu vết + Chấn động não + Điện não đồ: Hiện tại không thấy sóng điện não bệnh lý: 3%. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 3%.

Ngày 02/11/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra ra Quyết định trưng cầu giám định số 284 trưng cầu Trung tâm Pháp y - Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang giám định thương tích của Lê Văn Th. Tuy nhiên, quá trình làm việc Thxác nhận chỉ bị đau phần mềm, không bị xây xước gì, không đi khám và điều trị ở cơ sở y tế nào nên đã làm đơn từ chối giám định thương tích.

Ngày 25/12/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định đối với đoạn video do Công an thị trấn Kép trích xuất trên hệ thống camera an ninh của gia đình Nguyễn Thị T. Tại Bản kết luận giám định số 74/KL-KTHS ngày 10/01/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, kết luận: Không phát hiện dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung hình ảnh có trong file video gửi giám định; dung lượng 47,1MB; thời lượng: 07 phút 14 giây.

Quá trình điều tra các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên.

Tại bản cáo trạng số 17/CT-VKS ngày 16 tháng 2 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang đã truy tố bị cáo Lê Văn Th và Nguyễn Thị T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Đại diện viện kiểm sát truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, các bị cáo không bị oan. Các bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình là sai và rất hối hận.

Tại phiên tòa người bị hại Nguyễn Ngọc Ng yêu cầu các bị cáo phải bồi thường chi phí lắp răng 120.000.000 đồng, tiền viện phí 607.000 đồng, tổn thất tinh thần là 100.000.000 đồng, tiền mất thu nhập thực tế trong 22 ngày với mức thu nhập bình quân là 40.000.000 đồng/tháng.

Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa được Hội đồng xét xử công bố lời khai, các bị cáo không có ý kiến gì về những lời khai đó.

Sau phần xét hỏi, tại phần tranh luận Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang đã phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện, nhân thân bị cáo, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS của bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:

a) Về trách nhiệm hình sự:

- Áp dụng điểm đ Khoản 2 Điều 134; b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn Th từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời gian chấp hành án tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.

- Áp dụng điểm đ Khoản 2 Điều 134; b, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 năm đến 04 năm 06 tháng về tội “Cố ý gây thương tích”.

b) Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) ống kim loại sáng màu, hình tròn, dài 1,05m, đường kính 03cm, một đầu có gắn một thanh kim loại kích thước (5,2x1,8)cm là hung khí gây thương tích cho bị hại.

c) Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, 585, 586, 587, 590 Bộ luật dân sự: Buộc bị cáo Lê Văn Th và Nguyễn Thị T phải bồi thường cho anh Nguyễn Ngọc Ng:

- Chi phí điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang: 607.000 đồng.

- Chi phí khám và cắm răng giả: 60.000.000 đồng/ 06 cái.

- Bồi thường thiệt hại 22 ngày anh Ng phải nghỉ làm để điều trị và phục hồi: Số tiền 4.400.000 đồng.

- Bồi thương về tôn thất tinh thần từ 15 tháng đến 20 thang lương cơ bản tương đương 27.000.000 đồng đến 36.000.000 đồng.

Tổng số tiền bồi thường là 92.007.000 đồng đến 101.007.000 đồng nhưng được khấu trừ số tiền 70.000.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạng Giang, 02 bị cáo còn phải bồi thường số tiền 22.007.000 đồng đến 31.007.000 đồng d) Án phí: Bị cáo Thvà bị cáo T mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng. Về án phí dân sự, 02 bị cáo phải chịu án phí: 1.100.000 đồng đến 1.550.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì Bị hại có ý kiến tranh luận: đề nghị xem xét tội danh của các bị cáo là Cố ý giết người với tình tiết tăng nặng là có tổ chức và tính chất côn đồ.

Đại diện viện kiểm sát sau khi có ý kiến tranh luận với người bị hại vẫn giữ nguyên bản cáo trạng truy tố các bị cáo và quan điểm luận tội của mình.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là do không biết cách cư xử, bột phát nhất thời, bị cáo Thdo thấy vợ bị đánh nên đã không kìm chế được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lạng Giang, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang, điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng các quy định về thẩm quyền, trình tự tự thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án là hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của những người làm chứng: Hội đồng xét xử xét thấy, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng những người này vắng mặt, trong quá trình điều tra những người này đã được Cơ quan điều tra lấy lời khai, sự vắng mặt của họ không làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử nên căn cứ điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự để xét xử vụ án.

[3] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Trước cũng như tại phiên toà hôm nay, các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình được xác định như sau: Khoảng 06 giờ 40 ngày 29/9/2023, tại khu vực trước cửa nhà Nguyễn Thị T ở tổ dân phố Sậm, thị trấn Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, do có mâu thuẫn giữa hai gia đình nên T và anh Nguyễn Ngọc Ng (là hàng xóm cạnh nhà) xảy ra xô xát, cãi chửi nhau. Trong khi xô xát, T và chồng là Lê Văn Th đã cùng nhau đánh gây thương tích cho anh Ng. Thcầm một ống kim loại dài 1,05m, đường kính 03cm, một đầu có gắn một thanh kim loại kích thước (5,2 x 1,8)cm vụt nhiều phát trúng vào vùng mặt và người người anh Ng, cùng lúc T dùng tay đánh vào lưng anh Ng, khi anh Ng ngã xuống đất thì Thvà T cùng nhau xanh vào dùng chân đạp nhiều cái vào người anh Ng. Hậu quả: Anh Ng bị gãy 03 chiếc răng, bị thương vùng dưới môi phải, niêm mạc miệng bên phải, vùng lưng trái, với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 15%.

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, cũng như vật chứng đã thu hồi. Phù hợp với nội dung 01 đoạn video dài 07 phút 14 giây của camera an ninh của gia đình Nguyễn Thị T, ghi lại diễn biến sự việc cố ý gây thương tích; phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; lời khai của bị hại; người làm chứng có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Lời khai của các bị cáo cũng hoàn toàn phù hợp với thời gian và địa điểm xảy ra tội phạm. Do đó, hành vi của các bị cáo Lê Văn Th và Nguyễn Thị T đã đủ cơ sở cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang đã truy tố bị cáo theo tội danh, điều luật trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Các bị cáo đều có nhân thân tốt.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: 02 bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện nộp 70.000.000 đồng để bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại; nguyên nhân dẫn đến sự việc phạm tội cũng một phần do lỗi người bị hại khi anh Ng có chửi và đánh lại bị cáo T. Ngoài ra, bị cáo Thcó bố đẻ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, mẹ đẻ được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất; bị cáo T có mẹ đẻ được tặng thưởng Huy chương vì sự nghiệp giao thông vận tải nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, “Người phạm tội tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả” quy định tại điểm b, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Xét về tính chất, mức độ, vai trò của các bị cáo:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, 02 bị cáo dùng 01 ống kim loại sáng màu, hình trụ, dài 1,05m, đường kính 03cm, một đầu có gắn một thanh kim loại kích thước (5,2x1,8)cm để gây thương tích cho người bị hại, vì vậy thuôc trương hơp “dung hung khi nguy hiêm” theo tinh thần hương dẫn tai Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP Ngy 12/5/2006 cua HĐTP Toa an nhân dân Tối cao. Hành vi của các bị cáo đã xâm hại đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương.

Đây là vụ án đồng phạm nhưng được tổ chức dưới hình thức giản đơn. Cả hai bị cáo đều là người thực hành, trực tiếp đánh gây thương tích cho anh Ng, trong đó bị cáo Thlà người trực tiếp dùng hung khí đánh anh Ng nên có vai trò thứ nhất, bị cáo T khi thấy bị cáo Thđánh anh Ng thì cũng dùng chân tay đánh anh Ng nên có vai trò thứ hai trong vụ án.

Sau khi đánh giá, phân tích vai trò, nhân thân của từng bị cáo trong vụ án thì HĐXX thấy hành vi của bị cáo Thmang tính chất nghiêm trọng, bị cáo tỏ ra hung hãn coi thường sức khỏe của người khác, cụ thể khi bị cáo cầm được chiếc gậy sắt bị cáo đã vụt Ngng vào mặt người bị hại đó là nguyên nhân chính, trực tiếp dẫn đến thương tích cho bị hại nên cần xử phạt bị cáo Thmức án tương xứng với tính chất hành vi phạm tội thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục và phòng ngừa chung.

Đối với hành vi phạm tội của bị cáo T, lúc đầu có dùng gậy để đánh bị hại nhưng không gây thương tích, sau đó tiếp tục dùng chân tay đánh đấm người bị hại khi người bị hại đã bị ngã. Hội đồng xét xử thấy: Quá trình đánh nhau với người bị hại, bị cáo T cũng bị thương tích 3%, hai bị cáo là vợ chồng của nhau, bản thân bị cáo T còn có con bị khuyết tật cần chăm sóc nên không buộc bị cáo T phải chấp hành hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta là phù hợp và có căn cứ theo quy định tại Nghị quyết số 02/VBHN-TANDTC ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng Điều 65 của BLHS về án treo” như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ở tại phiên tòa, cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành con người làm ăn lương thiện.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Ngọc Ng yêu cầu 02 bị cáo bồi thường, gồm: Tiền khám và cắm răng giả là 120.000.000 đồng, chi phí điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang 607.000 đồng và bồi thường tổn thất về tinh thần 100.000.000 đồng, tiền thu nhập bị mất trong 22 ngày với mức tiền công lao động bình quân là 40.000.000/tháng. Trong thời gian chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử 02 bị cáo đã tự nguyện nộp vào Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạng Giang 70.000.000 đồng để bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại Đối với yêu cầu bồi thường số tiền chi phí điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang là chi phí có hoá đơn hợp lý nên cần được chấp nhận với tổng số tiền 607.000 đồng Đối với yêu cầu bồi thường tiền khám và cắm răng giả số tiền 120.000.000 đồng (20.000.000đ/ 01 chiếc răng) Hội đồng xét xử nhận thấy: Theo biên bản xác minh chi phí trồng răng tại phòng khám nha khoa quốc tế An Bình thì anh Ng phải trồng lại 06 chiếc răng (do các răng bên cạnh cũng bị ảnh hưởng nên phải thay thế), vì vậy việc yêu cầu của bị hại về việc phải bồi thường đối với 06 chiếc răng trồng lại là có căn cứ. Về số tiền bồi thường: Theo xác minh tại phòng khám nha khoa quốc tế An Bình thì bác sỹ đã tư vấn cho anh Ng nhổ bỏ toàn bộ những chiếc răng bị gãy vỡ và cắm những chiếc răng implant tại vị trí các răng 31, 33, 37, 41, 42, 46, tổng chi phí là 120.000.000 đồng (20.000.000 đồng/01 chiếc), tuy nhiên theo xác minh tại Trung tâm y tế huyện Lạng Giang, xác định: Trồng răng bằng phương pháp implant với chi phí trung bình 10.000.000đ/ 01 chiếc răng là có thể sử dụng ổn định, lâu dài. Vì vậy, cần chấp nhận chi phí trồng lại răng cho anh Ng theo giá trồng răng 10.000.000 đồng/ chiếc theo xác minh tại Trung tâm y tế huyện Lạng Giang là phù hợp vậy tổng số tiền chi phí cho việc trồng răng là 60.000.000 đồng.

Đối vơi yêu cầu bồi thương về tôn thất tinh thần cua anh Ng: Xét thấy viêc bi ̣cao gây thương tich vung mặt khiến bị hại bị gãy răng, tổng thương tích là 15% nên căn cư khoan 2 Điều 590 Bô luât dân sư, buôc 02 bi ̣cao bồi thương về tôn thất tinh thần cho anh Ng số tiền bằng 15 thang lương cơ bản tương đương 27.000.000 đồng là phù hợp. Về tiền mất thu nhập thực tế: Trong quá trình điều tra anh Ng khai bản thân là lao động tự do thu nhập trung bình là 200.000 đồng/ngày, anh Ng yêu cầu bồi thường mất thu nhập 22 ngày phải điều trị và phục hồi, không đi làm được, 02 bị cáo Ng và T đồng ý bồi thường đối với khoản tiền này nên Hội đồng xét xử thấy cần chấp số tiền mất thu nhập thực tế của anh Ng là 200.000 đồng/ngày x 22 ngày = 4.400.000 đồng.

Tổng số tiền các bị cáo phải liên đới bồi thường cho người bị hại anh Nguyễn Ngọc Ng là: 607.000 đồng + 60.000.000 đồng + 27.000.000 đồng + 4.400.000 đồng = 92.007.000 đồng Các bị cáo đã tự nguyện nộp 70.000.000 đồng nền cần buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường thêm cho anh Nguyễn Ngọc Ng số tiền còn lại là: 92.007.000 đồng – 70.000.000 đồng = 22.007.000 đồng.

[7] Đối với hành vi của anh Nguyễn Ngọc Ng gây thương tích 3% cho bị cáo Nguyễn Thị T, ngày 20/12/2023 Công an huyện Lạng Giang đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với anh Ng 6.500.000 đồng.

[8] Về xử lý vật chứng: 01 ống kim loại sáng màu, hình tròn, dài 1,05m, đường kính 03cm, một đầu có gắn một thanh kim loại kích thước (5,2x1,8)cm (được niêm phong trong 01 hộp nhựa màu đỏ hình chữ nhật) la hung khi bị cáo Thịnh, T dùng gây thương tich cho bị hại không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 

QUYẾT ĐỊNH

 [1] Về trách nhiệm hình sự:

- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn Th 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án.

- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 02 (Hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (Bốn) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo T cho Ủy ban nhân dân Thị trấn Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang quản lý, giám sát, giáo dục trong chấp hành thời gian thử thách của án treo.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 2 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2] Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng Điều 584, 585, 586, 587, 590 Bộ luật dân sự buộc bị cáo Lê Văn Th và Nguyễn Thị T liên đới bồi thường cho người bị hại anh Nguyễn Ngọc Ng tổng số tiền là 92.007.000 đồng, bao gồm: Chi phí điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang là 607.000 đồng; Chi phí khám và cắm răng giả là 60.000.000 đồng/06 cái; Bồi thương về tôn thất tinh thần là 27.000.000 đồng và tiền mất thu nhập trên thực tế là 4.400.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền 70.000.000 đồng mà các bị cáo đã nộp tại Chi cục THADS theo biên lai số 0000675 ngày 13/3/2024 và số 0000680 ngày 27/3/2024. Các bị cáo còn phải liên đới bồi thường cho người bị hại anh Nguyễn Ngọc Ng số tiền là 22.007.000 đồng

[3] Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy 01 ống kim loại sáng màu, hình tròn, dài 1,05m, đường kính 03cm, một đầu có gắn một thanh kim loại kích thước (5,2x1,8)cm (được niêm phong trong 01 hộp nhựa màu đỏ hình chữ nhật) (Đặc điểm vật chứng của vụ án theo như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang).

[4] Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBNTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án - Về án phí:

Bị cáo Lê Văn Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Nguyễn Thị T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Lê Văn Th và Nguyễn Thị T phải liên đới chịu 1.100.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

[5] Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7, 7a, 7b và 9 - Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 - Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 25/2024/HS-ST

Số hiệu:25/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về