TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 23/2022/HSST NGÀY 11/07/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 11 tháng 7 năm 2022. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2022, đối với các bị cáo:
1/Võ Văn H, sinh ngày 23/8/2002, tại huyện T, tỉnh S; Nơi cư trú: Ấ p Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh S; Nghề nghiệp: Ngư phủ; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; C on ông (không rõ) và bà Nguyễn Thị C (sống); Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt từ ngày 12/01/2022 đến nay.
2/Phạm Văn N, sinh ngày 06/10/2002, tại huyện P, tỉnh C; Nơi cư trú: Ấp C, thị trấn T, huyện T, tỉnh S; Nghề nghiệp: Ngư phủ; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; C on ông Phạm Văn T (sống) và bà Nguyễn Thị C (sống); Tiền án, tiền sự: Không; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 12/01/2022 đến nay.
(Các Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Bị hại: Nguyễn Út T, sinh năm 1977 (Có mặt). Nơi cư trú: Ấp N, thị trấn T, huyện T, tỉnh S.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/Nguyễn Văn H, sinh năm 1971 (Có mặt).
2/Trần Khánh T1, sinh năm 1970 (Vắng mặt).
3/Lý Văn Đ, sinh năm 2003 (Vắng mặt).
Cùng nơi cư trú: Ấp N, thị trấn T, huyện T, tỉnh S.
4/Trần Hoài K, sinh năm 2000 (Có mặt).
Nơi cứ trú: Ấp C, thị trấn T, huyện T, tỉnh S.
5/Lý Văn H1, sinh năm 2004 (Vắng mặt).
Nơi cứ trú: Ấp Đ, thị trấn T, huyện T, tỉnh S.
- Người làm chứng: Phan Minh T2, sinh năm 2003 (Vắng mặt). Nơi cứ trú: Ấp M, xã T, huyện T, tỉnh S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và di ễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 19/6/2021, Võ Văn H, Triệu Ngọc S, Phạm Văn N, Phan Minh T2, Lý Văn H1, Lý Văn Đ, Trần Thái B, Trần Hoài K cùng hai người bạn của K là K1 và T3 tổ chức uống rượu tại nhà của K ở ấp C, thị trấn T, huyện T, tỉnh S. Đến khoảng 16 giờ, cả nhóm cùng nhau qua quán L (lẩu Rắn) để nhậu, khi vào quán, cả nhóm vào phòng hát Karaoke số 01. Thời điểm này, trong quán nhậu tại chòi lá số 6, gần phòng hát Karaoke số 01 có Nguyễn Út T đang ngồi nhậu cùng Trần Khánh T1, Nguyễn Văn H, Lê Thành Đ. Trong lúc nhậu, H và S từ phòng số 01 sang chòi lá số 6 của T mời bia, khoảng năm phút sau H từ chòi số 06 sang phòng số 01 mời lại. Một lúc sau H và S tiếp tục qua mời bia ở chòi số 06, T1 thấy phiền về việc S và H qua mời bia, nên lớn tiếng chửi H và S. H và S trở về phòng số 01 thuật lại việc nhóm người của ông T gây chuyện. Thấy vậy, N kêu tính tiền để ra về. Khi nhóm người của N đang lấy xe ra về thì T và T1 từ trong quán cũng đi ra. Lúc này, T từ trong quán đi ra chửi thô tục, thấy vậy, H rút cây gậy ba khúc từ trong cốp xe, cất vào thắt lưng bên trái, thấy T tiến tới, H cầm cây gậy ba khúc trên tay phải rồi đi lại gần T. Thấy sắp có đánh nhau H và N chạy về nhà N để lấy dao. T bước tới dùng tay đánh H, nhưng H dùng tay trái đỡ được, rồi H cầm cây gậy ba khúc đánh trúng vào thái dương trái của T. T vật H xuống dưới mương nước cập bờ lộ, đè đầu H xuống nước. T1 lúc này cũng từ trong quán đi ra nói “Thằng nào bảnh ra tay đôi với tao”, Đ và K tiến ra trước để đánh nhau với T1, T1 dùng tay không đánh vào mặt K. N và H quay trở lại, H mang theo cây dao y, N mang theo dao tự chế, Đ, S, N rượt theo T1, nhưng T1 bỏ chạy được. Rượt đến cổng Lò Rèn Quán thì quay trở lại chỗ H. Thấy H bị đánh, S giật lấy cây dao tự chế trên tay N, N nhặt cây còng tươi ở gần đó, rồi chạy lại đánh hai cái vào trán T, S cầm dao lao vào chém trúng một cái vào lưng T. N kéo H lên bờ, khi lên được tới mé bờ thì H tiếp tục dùng cây gậy ba khúc đánh ba cái, một cái trúng vào phần đỉnh đầu, một cái trúng vào vai phải, một cái trúng vào phần đầu bên trái. Lúc này T gục xuống thì nhóm của H, S, N mới bỏ đi.
Tại bản Bản kết luận giám định số 254/TgT-PY ngày 15/9/2021 của Trung tâm giám định pháp y thuộc sở y tế tỉnh S kết luận:
- Dấu hiệu chính qua giám định:
+ Sẹo xuôi đỉnh đầu, kích thước sẹo lớn. Căn cứ vào Bảng 1, Chương 8, Mục I.3. Thông tư số 22/2019/TT-BYT, ngày 28/8/20212 của Bộ Y tế. Tỉ lệ tổn thương cơ thể là 03% (Ba phần trăm);
+ Sẹo vùng đỉnh – thái dương trái, kích thước sẹo nhỏ. Căn cứ vào Bảng 1, Chương 8, Mục I.1. Thông tư số 22/2019/TT-BYT, ngày 28/8/20212 của Bộ Y tế. Tỉ lệ tổn thương cơ thể là 01% (Một phần trăm).
+ Sẹo vùng đỉnh – thái dương trái, kích thước sẹo nhỏ. Căn cứ vào Bảng 1, Chương 8, Mục I.1. Thông tư số 22/2019/TT-BYT, ngày 28/8/20212 của Bộ Y tế. Tỉ lệ tổn thương cơ thể là 01% (Một phần trăm).
+ Sẹo vùng đỉnh – trán phải, kích thước sẹo nhỏ. Căn cứ vào Bảng 1, Chương 8, Mục I.1. Thông tư số 22/2019/TT-BYT, ngày 28/8/20212 của Bộ Y tế. Tỉ lệ tổn thương cơ thể là 01% (Một phần trăm).
+ Sẹo vùng trán, kích thước sẹo nhỏ. Căn cứ vào Bảng 1, Chương 8, Mục I.1 và phần nguyên tắc 2. Thông tư số 22/2019/TT-BYT, ngày 28/8/20212 của Bộ Y tế. Tỉ lệ tổn thương cơ thể là 03% (Ba phần trăm).
+ Sẹo vùng trán, kích thước sẹo nhỏ. Căn cứ vào Bảng 1, Chương 8, Mục I.1 và phần nguyên tắc 2. Thông tư số 22/2019/TT-BYT, ngày 28/8/20212 của Bộ Y tế. Tỉ lệ tổn thương cơ thể là 03% (Ba phần trăm).
+ Sẹo chân mày phải, kích thước sẹo trung bình. Căn cứ vào Bảng 1, Chương 8, Mục I.2 và phần nguyên tắc 2. Thông tư số 22/2019/TT-BYT, ngày 28/8/20212 của Bộ Y tế. Tỉ lệ tổn thương cơ thể là 06% (Sáu phần trăm).
+ Sẹo vùng lưng phải, kích thước sẹo lớn. Căn cứ vào Bảng 1, Chương 8, Mục I.3. Thông tư số 22/2019/TT-BYT, ngày 28/8/20212 của Bộ Y tế. Tỉ lệ tổn thương cơ thể là 03% (Ba phần trăm).
Tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể là 19%.
- Kết luận khác: Tổn thương vùng đầu – trán, vùng lưng phải nằm ở vùng gây nguy hiểm đến tính mạng; Tổn thương gây ảnh hưởng thẩm mỹ vùng mặt.
Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị hại, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.
Tại Bản cáo trạng số: 16/CT-VKSĐT ngày 25/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố Võ Văn H và Phạm Văn N về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích”, áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Võ Văn H từ 02 năm đến 03 năm tù và Phạm Văn N từ 02 năm đến 03 năm tù.
Tại phiên tòa bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày phù hợp với các tình tiết như trong Cáo trạng đã nêu. Bị hại không có ý kiến tranh luận.
Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Nhất trí với lời luận tội của Vị đại diện Viện kiểm sát; các Bị cáo không tranh luận, không bào chữa cho mình; Lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong.
Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện T đã thu giữ gồm:
- 01 (một) cây dao bằng kim loại màu đen, bị gãy cán, lưỡi dao dài 59 cm, lưỡi dao rộng nhất 6,5 cm, mũi dao nhọn, cán dao dài 22 cm, cán dao bằng kim loại màu đen, lưỡi dao có chữ “QUARRY STONES KNIFE”, 01 (một) vỏ dao bằng vải, màu đen, dài 57 cm, rộng nhất 9 cm;
- 01 (một) đoạn cây còng còn tươi, dài 60 cm, phần vỏ 02 đầu cây bị tróc;
- 01 (một) đoạn gỗ còng khô dài 70 cm.
Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Các bị cáo phải chịu án phí theo luật định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo người bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện, Hội đồng xét xử nhận thấy: Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 19/6/2021, tại quán Lò Rèn Quán (lẩu Rắn) thuộc ấp C, thị trấn T, huyện T, tỉnh S, Võ Văn H và Phạm Văn N đã có hành vi dùng gậy ba Khúc và đoạn cây còng tươi tấn công vào vùng đầu của bị hại Nguyễn Út T với tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 19%. Hành vi của các bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp và xâm hại đến sức khỏe của người khác. Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% và thuộc trường hợp dùng hung khí nguy hiểm”. Chỉ vì mâu thuẩn nhỏ lời qua tiếng lại mà các bị cáo đã xâm hại sức khỏe của người khác . Ngoài ra hành vi của các bị cáo còn gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh t rật tự xã hội tại địa phương.
[3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại và được bị hại làm đơn bãi nại, không yêu cầu xử lý hình sự; trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế; trong vụ án này lỗi một phần do bị hại đã có hành vi trái pháp luật như dùng lời lẽ thô tục và tấn công bị cáo H trước; các bị cáo không tiền án, tiền sự (mới phạm tội lần đầu); tại tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt do đó các bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự.
[4] Tại tòa hôm nay các bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu và lời luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát. Đối chiếu hành vi phạm tội của các bị cáo thực hiện vừa nêu trên với các quy định của Bộ luật hình sự thì các bị cáo đã phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh S truy tố các bị cáo theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.
[5] Về xử lý vật chứng: Các đồ vật, vật chứng Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện T đã thu giữ như đã nêu trên. Xét thấy cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo và bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong và bị hại không yêu cầu gì khác nên không cần thiết phải đặt ra xem xét, giải quyết.
[7] Đối với những người vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy việc vắng mặt của những người này không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng Điều 292 và Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự để xét xử vụ án.
[8] Đối với Triệu Ngọc S, Cơ quan điều tra đã áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Nhưng trong quá trình điều tra S đã bỏ đi khỏi địa phương. Ngày 04 tháng 4 năm 2022, Cơ quan điều tra đã ra Lệnh bắt để tạm giam đối với Triệu Ngọc S nhưng chưa bắt được. Cơ quan điều tra đã tiến hành tách vụ án, sau khi bắt được sẽ xử lý theo quy định là có căn cứ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
1/ Tuyên bố: Các bị cáo Võ Văn H và Phạm Văn N phạm tội “ Cố ý gây thương tích”.
2/ Tuyên xử:
- Xử phạt bị cáo Võ Văn H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 12/01/2022.
- Xử phạt bị cáo Phạm Văn N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.
3/ Về bồi thường thiệt hại: Các bị cáo và bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong và bị hại không yêu cầu gì khác nên không cần thiết phải đặt ra xem xét, giải quyết.
4/ Về xử lý vật chứng Về xử lý vật chứng (Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự), tịch thu, tiêu hủy:
- 01 (một) cây dao bằng kim loại màu đen, bị gãy cán, lưỡi dao dài 59 cm, lưỡi dao rộng nhất 6,5 cm, mũi dao nhọn, cán dao dài 22 cm, cán dao bằng kim loại màu đen, lưỡi dao có chữ “QUARRY STONES KNIFE”, 01 (một) vỏ dao bằng vải, màu đen, dài 57 cm, rộng nhất 9 cm;
- 01 (một) đoạn cây còng còn tươi, dài 60 cm, phần vỏ 02 đầu cây bị tróc;
- 01 (một) đoạn gỗ còng khô dài 70 cm.
Vật chứng hiện nay do Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S đang quản lý.
- Về án phí (Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án): Các bị cáo mỗi người phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Báo cho các bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan b iết, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án . Riêng người vắng mặt được tính từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết đ ể yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh S xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7,7a,7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tạ i Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 23/2022/HSST
Số hiệu: | 23/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về