Bản án về tội cố ý gây thương tích số 229/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 229 /2020/HS-PT NGÀY 04/09/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 04 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 226/2020/TLPT-HS ngày 04/8/2020 đối với bị cáo Phạm Xuân S về tội “Cố ý gây thương tích”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 163/2020/HS-ST ngày 16/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo bị kháng cáo:

Họ và tên: Phạm Xuân S (Tên khác: S Lé), sinh ngày 19/10/1987, tại tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Phường TL, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm H và bà Phạm Thị Thanh T; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 187/2009/HSST ngày 29/5/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt bị cáo 04 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 03/5/2012 chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo tại ngoại – Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Hoàng Văn X, sinh năm 1991; trú tại: Phường TL1, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Huỳnh Thị Mai H1, sinh năm 1975; trú tại: Đường C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 9 năm 2019, bà Huỳnh Thị Mai H1 nhờ Phạm Xuân S đi lấy 12.000.000 đồng tiền nợ từ khách hàng của bà H1 ở huyện KN, tỉnh Đắk Lắk, cả hai thỏa thuận lấy được tiền sẽ trả cho S 6.000.000 đồng, thì S đồng ý. Sau khi lấy được tiền nợ, S chưa trả tiền cho bà H1 nên bà H1 nhờ anh Hoàng Văn X liên lạc với S để nói S trả tiền. Anh X nhiều lần gọi điện thoại cho S nhưng không được nên nhắn tin chửi S để đòi tiền. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 02/10/2019, do bực tức vì bị chửi nhiều lần, S điều khiển xe ô tô (Không rõ biển số và chủ sở hữu của xe), chở H2 và T1 (Chưa rõ nhân thân, lai lịch) đi đến dãy trọ tại phường TL, thành phố B, để tìm anh X. Khi anh X vừa mở cửa thì S ra xe ô tô lấy một con dao dài khoảng 80cm, cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại rồi đi đến vị trí anh X đang đứng, S cầm dao bằng tay phải chém 01 nhát theo hướng từ trên xuống dưới, từ trái sang phải trúng cẳng tay trái của anh X gây thương tích. S tiếp tục xông đến định chém anh X thì được H2 và T2 can ngăn nên S bỏ về. Sau đó, anh X được người dân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa vùng TN.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 1311/TgT-TTPY ngày 25/11/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh ĐắkLắk, kết luận: Anh Hoàng Văn X bị sẹo dính dạng chữ Z mặt sau cẳng tay trái, kích thước 16cm x 0,2cm; hạn chế gập duỗi cổ tay trái mức độ ít; hạn chế duỗi ngón III, IV, V tay trái mức độ ít; đứt dây thần kinh gian cốt sau (Nhánh của thần kinh quay); gãy hở xương trụ trái đã mổ kết hợp xương. Tỷ lệ thương tích là 28%. Vật tác động: Sắc, bén.

Vật chứng thu giữ:

- Đối với 01 con dao khoảng 80cm, cán bằng gỗ, lưỡi bằng kim loại là hung khí bị cáo S dùng để chém anh X, S đã vứt bỏ trong lúc đi về, không rõ địa điểm nên Cơ quan điều tra không thu giữ được.

- Đối với 01 xe ô tô là phương tiện bị cáo S sử dụng để đi đến hiện trường, Cơ quan điều tra chưa xác định được biển số, nhãn hiệu và chủ sở hữu của xe nên tách chiếc xe trên ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi gây thương tích, S đã bồi thường thiệt hại cho anh Hoàng Văn X 50.000.000 đồng, anh X không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đề cập giải quyết.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 163/2020/HS-ST ngày 16/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Xuân S (S Lé) phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng các điểm a, i khoản 1; điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Xuân S 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo .

Ngày 29/6/2020, bị cáo Phạm Xuân S có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Phạm Xuân S đã khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, hậu quả gây ra đối với hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phạm Xuân S về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự là có căn cứ. Mức hình phạt 02 năm 03 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 BLTTHS không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận gì thêm và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Xuân S tại phiên toà phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo, của bị hại và những người tham gia tố tụng khác tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp lý kết luận: Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 02/10/2019, tại dãy trọ ở phường TL, thành phố B, xuất phát từ việc bị cáo Phạm Xuân S bực tức vì bị anh Hoàng Văn X nhiều lần nhắn tin chửi bị cáo để đòi tiền nợ giùm bà Huỳnh Thị Mai H1, nên bị cáo đã dùng dao chém nhiều nhát vào người anh Hoàng Văn X, hậu quả gây thương tích 28% cho anh X. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phạm Xuân S về tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung tăng nặng “Dùng hung khí nguy hiểm” và “Có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Mức hình phạt 02 năm 03 tháng tù bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và hậu quả do bị cáo gây ra. Bị cáo có nhân thân xấu, tại Bản án số 187/2009/HSST ngày 29/5/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã xử phạt bị cáo 04 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà còn tiếp tục phạm tội. Khi quyết định hình phạt, bản án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng như bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại 50.000.000 đồng và được bị hại làm đơn bãi nại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Vì vậy, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về phần hình phạt.

[3] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Xuân S – Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 163/2020/HS-ST ngày 16/6/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về phần hình phạt.

[2] Điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Xuân S (Tên khác: S Lé) 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[3] Về án phí: Bị cáo Phạm Xuân S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 229/2020/HS-PT

Số hiệu:229/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về