TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 189/2020/HS-PT NGÀY 28/05/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Từ ngày 25 đến ngày 28 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 85/2020/HS- PT ngày 28 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo Trương VV; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 26/2020/HS-ST ngày 15 tháng 01 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
- Bị cáo có kháng cáo: Trương VV, sinh ngày 09/10/1959, tại tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Hộ khẩu thường trú: huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở: huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Bảo vệ; Trình độ học vấn: Lớp 7/10; Họ tên cha: Trương VX, sinh năm 1919 (đã chết); Họ tên mẹ: Nguyễn TE, sinh năm 1921 (đã chết); Họ tên vợ: Võ TTH, sinh năm 1963 (đã ly hôn); có 02 con sinh năm 1995 và năm 1998; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 15 tháng 8 năm 2019; có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đỗ VV – Luật sư Công ty luật TNHH MTV ĐV thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1984.
Nơi cư trú: phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.
- Người tham gia tố tụng khác:
1. Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1956.
Nơi cư trú: phường A, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.
2. Người giám định: Ông Nguyễn G – Giám định viên Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Đồng Nai; có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trương VV và anh Nguyễn Văn H đều là nhân viên bảo vệ của Công ty dịch vụ B (Văn phòng đại diện: KP 5, phường L, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai). V được Công ty phân công nhiệm vụ bảo vệ chốt mục tiêu tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Watabe Wedding Việt Nam (Viết tắt là Công ty Watabe Wedding) có trụ sở tại khu công nghiệp Amata, thuộc phường L, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (nơi B ký hợp đồng cung cấp dịch vụ bảo vệ); còn anh H được phân công nhiệm vụ kiểm tra điều lệnh các chốt bảo vệ về việc chấp hành nội quy Công ty đối với nhân viên bảo vệ, trong đó có chốt bảo vệ tại Công ty Watabe Wedding (nơi V làm việc).
Khoảng 02 giờ ngày 25/10/2018, anh H đến kiểm tra chốt bảo vệ Công ty Watabe Wedding thì thấy V đang ngồi trong chốt bảo vệ cổng phụ và không mặc đồng phục trong giờ làm việc nên anh H đi ra cổng chính Công ty yêu cầu ông Nguyễn Văn C (nhân viên bảo vệ B) gọi điện cho V ra cổng chính gặp anh H. Khi V đi ra cổng chính thì anh H nhắc nhở và hỏi lý do tại sao không mặc đồng phục, V giải thích do bận làm cỏ, hai bên có lời qua tiếng lại dẫn đến mâu thuẫn cãi nhau. Ông C can ngăn nên anh H đi ra đứng trước cổng của Công ty Watabe Wedding, sau đó V đi theo ra ngoài cổng tiếp tục cãi nhau và có lời nói thách thức đánh nhau với anh H.
Do tức giận vì bị V thách thức, anh H dùng tay tát 01 cái vào mặt V. V liền rút từ trong túi quần 01 vật bằng kim loại sắc nhọn (không rõ loại) đâm 01 nhát trúng cánh tay phải anh H gây thương tích đứt động mạch cánh tay phải, máu phun ra nhiều nên V bỏ đi. Anh H được ông C đưa đến Bệnh viện đa khoa Đồng Nai cấp cứu, sau đó chuyển đến Bệnh viện Chợ Rẫy thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục điều trị.
+ Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0336/TgT/2019 ngày 03/5/2019 của Trung tâm pháp y Đồng Nai, kết luận anh Nguyễn Văn H bị thương tích như sau:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Tổn thương dây thần kinh quay, dây thần kinh trụ, dây thần kinh giữa, thể sợi trục, mức độ nặng, vị trí ở cánh tay phải, hẹp nhẹ động mạch quay, trụ tay phải (tương đương tổn thương tháo khớp khuỷu tay phải). Tỷ lệ: 61% (Sáu mươi mốt phần trăm).
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là: 61% (Sáu mươi mốt phần trăm).
3. Kết luận khác:
Vật gây thương tích: Vật sắc nhọn.
+ Tại Bản kết luận giám định pháp y số 0337/TgT/2019 ngày 20/5/2019 của Trung tâm pháp y Đồng Nai, kết luận về vật gây thương tích như sau:
- Vết thương cánh tay phải kích thước 02cm sắc gọn để lại sẹo vết thương trên nền vết mổ mặt trong cánh tay phải tổng kích thước 09x0,4cm, đứt động mạch cánh tay, thần kinh cánh tay phải, tổn thương dây thần kinh giữa bên phải, thể sợi trục, mức độ nặng, vị trí tổn thương ở vùng cánh tay phải, tổn thương dây thần kinh quay bên phải, thể sợi trục, mức độ nặng, vị trí tổn thương vùng cánh tay phải, tổn thương dây thần kinh trụ bên phải, thể sợi trục, mức độ nặng, vị trí tổn thương ở vùng cánh tay phải. Tổn thương có đặc điểm bên ngoài rách da bờ mép sắc gọn rộng khoảng 02cm, đứt tổ chức dưới da và sâu vào bên trong gây tổn thương mạch máu và thần kinh cánh tay. Tổn thương này do vật sắc nhọn, có chiều rộng khoảng 02cm hoặc nhỏ hơn tác động theo hướng gần vuông góc bề mặt da gây nên.
- Hung khí là một chiếc chìa khóa bằng kim loại và 01 chiếc móc tai bằng kim loại màu trắng, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai gửi giám định không thể gây ra tổn thương của nạn nhân Nguyễn Văn H. Hung khí chìa khóa và móc tai gửi giám định nêu trên nếu tác động vị trí này sẽ gây tổn thương theo cơ chế vật tày hoặc vật tày có cạnh.
+ Vật chứng vụ án: 01 (một) vật bằng kim loại sắc nhọn (chưa rõ loại) Trương VV sử dụng gây án và cầm đi khỏi hiện trường, do V không khai nhận hành vi dùng vật sắc nhọn đâm bị hại nên không truy tìm được.
Quá trình điều tra, Trương VV giao nộp cho Cơ quan điều tra: 01 chìa khóa bằng kim loại đầu dẹp, có răng cưa không đều dài 03cm, nơi rộng nhất 01cm, dày 1,5mm, đầu tù; đầu còn lại bọc bằng nhựa màu đen có hiệu YAMAHA có lỗ dạng hình thang, kích thước 2,8cmx2cm, dày 0,6cm và 01 chiếc móc tai bằng kim loại màu trắng, dẹp, dài 06cm, dày 01mm, một đầu hình tròn có dạng muỗng (dùng để móc ráy tai) nơi rộng nhất 0,3cm. Một đầu hình tròn có lỗ sỏ nơi rộng nhất 0,8cm, trọng lượng nhỏ. V khai sử dụng 02 vật trên gây thương tích cho anh H. Cơ quan điều tra trưng cầu giám định đối với chìa khóa và móc tai nêu trên. Kết quả giám định chìa khóa và móc tai (có đặc điểm nêu trên) không thể gây ra tổn thương của nạn nhân Nguyễn Văn H.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Trương VV phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng khoản 1 và điểm d khoản 4 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Xử phạt bị cáo Trương VV 07 (Bảy) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 15/08/2019.
Ngoài ra, Bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, trách nhiệm bồi thường dân sự, nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 22/01/2020, bị cáo Trương VV có đơn kháng cáo cho rằng mức án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là quá nặng và yêu cầu được giám định lại tỷ lệ thương tật của bị hại.
+ Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Trương VV trình bày: Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo mới nhìn thấy tay của bị hại có 02 vết mổ cũ dài khoảng 12cm - 15cm nên bị cáo cho rằng kết luận giám định pháp y về thương tích số 0336/TgT/2019 ngày 03/5/2019 của Trung tâm pháp y Đồng Nai là chưa chính xác dẫn đến cấp sơ thẩm xét xử bị cáo mức án quá nặng, do đó đề nghị cấp phúc thẩm giám định lại thương tích của bị hại.
Theo đơn kháng cáo, bị cáo có đề cập đến số tiền bồi thường thiệt hại nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xác định không kháng cáo phần này, thống nhất với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
+ Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu ý kiến:
- Trong vụ án này bị hại có lỗi đánh bị cáo trước nên tinh thần của bị cáo bị kích động mạnh, do đó bị cáo phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều 135 Bộ luật hình sự.
- Quá trình điều tra vụ án, cơ quan cảnh sát điều tra không giải thích cho bị cáo quyền được yêu cầu giám định lại thương tích của bị hại và không thực nghiệm điều tra là vi phạm thủ tục tố tụng.
- Đối với kết luận giám định pháp y về thương tích số 0336/TgT/2019 ngày 03/5/2019 của Trung tâm pháp y Đồng Nai đã áp dụng chương 8, điều II, mục 1 Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ trưởng Bộ y tế để kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của bị hại là không đúng. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo là được giám định lại thương tích của bị hại.
Do cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án hình sự sơ thẩm số 26/2020/HS-ST ngày 15/01/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phát biểu:
Đối với yêu cầu của bị cáo và luật sư bào chữa của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm về việc giám định lại thương tích của bị hại. Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm có mặt giám định viên và giám định viên đã phân tích, giải thích rõ cơ chế hình thành vết thương và căn cứ vào Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ trưởng Bộ y tế để kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của bị hại là phù hợp, đúng quy định pháp luật, mặt khác quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thông báo kết luận giám định pháp y về thương tích số 0336/TgT/2019 ngày 03/5/2019 của Trung tâm pháp y Đồng Nai cho bị cáo biết và bị cáo không có ý kiến gì, do đó yêu cầu của bị cáo và luật sư bào chữa của bị cáo được giám định lại thương tích của bị hại là không có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận.
Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo Trương VV tại phiên tòa phúc thẩm, nhận thấy bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội và mức án đầu khung hình phạt là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp tình tiết giảm nhẹ mới là anh của bị cáo có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì, đây không phải là tình tiết giảm nhẹ đặc biệt mới nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương VV, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.
Bị cáo Trương VV không có ý kiến tranh luận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Trương VV làm trong thời hạn luật định là hợp lệ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm.
[2] Xét yêu cầu được giám định lại thương tích của bị hại: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cho rằng tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo mới nhìn thấy bị hại có 02 vết mổ cũ dài khoảng 12cm - 15cm nên yêu cầu giám định lại thương tích của bị hại, còn luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng Trung tâm pháp y Đồng Nai áp dụng chương 8, điều II, mục 1 Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ trưởng Bộ y tế để kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của bị hại là không đúng. Xét thấy, tại phiên tòa phúc thẩm có mặt Giám định viên thuộc Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Đồng Nai đã phân tích, giải thích rõ cơ chế hình thành vết thương và tỷ lệ tổn thương cơ thể của bị hại 61% là căn cứ vào tổn thương của bị hại bị đứt động mạch, tổn thương dây thần kinh quay, dây thần kinh trụ, dây thần kinh giữa, thể sợi trục, mức độ nặng, vị trí ở cánh tay phải, hẹp nhẹ động mạch quay, trụ tay phải, còn 02 vết mổ mà bị cáo thấy là 02 vết mổ để điều trị vết thương, không phải là căn cứ để tính tỷ lệ tổn thương cơ thể của bị hại và được thể hiện tại Giấy chứng nhận thương tích số 1388/YC-BVCR ngày 12/11/2018 của Bệnh viện Chợ Rẩy (BL 64). Đối với ý kiến của luật sư, qua xem xét Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0336/TgT/2019 ngày 03/5/2019 của Trung tâm pháp y Đồng Nai, đối chiếu với Bảng 1 tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích của Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ trưởng Bộ y tế thì Trung tâm pháp y Đồng Nai áp dụng chương 8, điều II, mục 1 của Thông tư để kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của bị hại là phù hợp và đúng quy định. Mặt khác quá trình điều tra và truy tố, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã thông báo, giải thích kết luận giám định pháp y về thương tích số 0336/TgT/2019 ngày 03/5/2019 của Trung tâm pháp y Đồng Nai cho bị cáo biết và bị cáo không có ý kiến gì (BL 26- 28, 31, 32), do đó yêu cầu của bị cáo, luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị giám định lại thương tích của bị hại là không có căn cứ chấp nhận.
[3] Về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt:
Căn cứ vào lời khai của bị cáo Trương VV tại phiên tòa cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định: Khoảng 02 giờ ngày 25/10/2018, tại trước cổng Công ty trách nhiệm hữu hạn Watabe Wedding Việt Nam - Khu công nghiệp Amata thuộc phường Long Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; anh Nguyễn Văn H trong lúc thực hiện nhiệm vụ đi kiểm tra việc chấp hành nội quy của nhân viên bảo vệ tại Công ty Watabe Wedding Việt Nam có nhắc nhở Trương VV về việc vi phạm quy định không mặc đồng phục trong giờ làm việc, nên Trương VV cảm thấy tự ái và đã thách thức đánh nhau với anh H. Khi bị anh H dùng tay tát 01 cái vào mặt, anh H chưa kịp rút tay về thì bị V lấy vật sắc nhọn (chưa rõ loại) giấu sẵn trong túi quần đâm 01 nhát trúng vào cánh tay phải anh H làm đứt động mạch cánh tay phải, gây tổn thương dây thần kinh giữa, dây thần kinh quay, dây thần kinh trụ bên phải, thể sợi trục, mức độ nặng, vị trí tổn thương vùng cánh tay phải, gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 61% (Sáu mươi mốt phần trăm). Khi gây ra thương tích cho anh H, bị cáo cầm theo hung khí bỏ đi, sau đó mới giao nộp lại cho Cơ quan điều tra.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận vết thương của bị hại là do bị cáo gây ra và khai dùng chìa khóa và một cái móc rái tai để gây ra thương tích cho anh H với hình dáng được ghi nhận như sau: chìa khóa bằng kim loại đầu dẹp, có răng cưa không đều dài 03cm, nơi rộng nhất 01cm, dày 1,5mm, đầu tù; đầu còn lại bọc bằng nhựa màu đen có hiệu YAMAHA có lỗ dạng hình thang, kích thước 2,8cmx2cm, dày 0,6cm và 01 chiếc móc tai bằng kim loại màu trắng, dẹp, dài 06cm, dày 01mm, một đầu hình tròn có dạng muỗng (dùng để móc ráy tai) nơi rộng nhất 0,3cm. Một đầu hình tròn có lỗ sỏ nơi rộng nhất 0,8cm. Bị cáo không thừa nhận dùng vật sắc nhọn để gây ra thương tích. Trong khi đó, thương tích trên cánh tay phải của anh H được kết luận là do vật sắc nhọn, có chiều rộng khoảng 02cm hoặc nhỏ hơn, tác động theo hướng gần vuông góc với bề mặt da gây nên và theo kết luận giám định Cơ quan điều tra thì chìa khóa và móc rái tai (có đặc điểm nêu trên) không thể gây ra tổn thương cho anh Nguyễn Văn H.
Xét thấy, tại phiên tòa bị cáo không thừa nhận dùng hung khí là vật sắc nhọn để gây ra thương tích cho bị hại nhưng thừa nhận giữa bị cáo và bị hại có xảy ra tranh cãi, mâu thuẫn với nhau trước khi anh H bị thương, tại thời điểm xảy ra sự việc chỉ có bị cáo, bị hại và người làm chứng Nguyễn Văn C tại hiện trường, không có sự tiếp xúc giữa bị hại với một người nào khác để có thể gây ra vết thương như trên, sự việc diễn ra liên tục từ khi hai bên gây gỗ cho đến khi anh H được ông Ca đưa đi bệnh viện cấp cứu là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại và người làm chứng, do đó về diễn biến sự việc và tình tiết vụ án đã rõ nên Cơ quan cảnh sát điều tra không tiến hành thực nghiệm điều tra là đúng pháp luật và cấp sơ đã thẩm căn cứ lời khai của bị cáo, bị hại, người làm chứng, Biên bản kiểm tra hiện trường và bản giám định pháp y thể hiện vết thương người bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án để kết luận hành vi của bị cáo Trương VV đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích”, tội danh và hình phạt được quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự với tình tiết định khung hình phạt là “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này” theo quy định tại điểm d khoản 4 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo Trương VV cho rằng cấp sơ thẩm xét xử bị cáo mức án quá nặng nên yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét và cung cấp tình tiết giảm nhẹ mới là anh của bị cáo có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì.
Hội đồng xét xử xét thấy, đây là tình tiết giảm nhẹ được xem xét theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, đây không phải tình tiết giảm nhẹ đặc biệt mới và khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc xem xét cho bị cáo tình tiết thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi đã thực hiện, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo là người lớn tuổi, người bị hại cũng có một phần lỗi khi đã tát bị cáo để áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và tuyên xử bị cáo với mức án 07 (bảy) năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương VV và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Xét ý kiến của người bào chữa cho bị cáo không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không chấp nhận.
Xét ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[4] Về án phí: Bị cáo Trương VV phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương VV.
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 26/2020/HS-ST ngày 15 tháng 01 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
1. Về tội danh và hình phạt:
Căn cứ điểm a khoản 1 và điểm d khoản 4 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Trương VV 07 (Bảy) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày 15/08/2019.
2. Về án phí:
Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Trương VV phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 189/2020/HS-PT
Số hiệu: | 189/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về