Bản án về tội cố ý gây thương tích số 14/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 14/2023/HS-PT NGÀY 22/02/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 22 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 202/2022/TLPT-HS ngày 16 tháng 11 năm 2022 đối với các bị cáo Nguyễn Văn P, Nguyễn Tấn L do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 79/2022/HS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Văn P (tên gọi khác Bột), sinh ngày 18/04/2001, tại tỉnh Tiền Giang; Thẻ căn cước công dân: 082201060XX; Nơi cư trú: khu phố X, phường Z, thị xã C, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Cha: Không rõ họ tên và mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1981; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Về nhân thân: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

2. Nguyễn Tấn L, sinh ngày 07/5/2003, tại tỉnh Tiền Giang; Thẻ căn cước công dân: 082203008XX; Nơi cư trú: khu phố X, phường Z, thị xã C, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Giới tính: nam; Con ông: Nguyễn Thanh T, sinh năm 1974 và bà: Thái Thị Ngọc T, sinh năm 1981; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Về nhân thân: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Hoàng B, bị hại nhưng không có kháng cáo; bản án không bị kháng nghị.

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Anh Võ Phước L2, sinh năm 1985, thường trú khu phố X, phường Z, thị xã C, tỉnh Tiền Giang và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1975 thường trú số X, đường A, khu phố X, phường Z, thị xã C, tỉnh Tiền Giang là hàng xóm nhà ở cạnh nhau và có mâu thuẫn nhưng chưa được giải quyết. Sáng ngày 06/01/2022, anh Phước L2 phát hiện một số đồ để trước sân nhà bị ướt, nghĩ do bà H làm nên anh L gọi điện kể lại cho chị ruột tên Võ Thị L, sinh năm 1983, thường trú khu phố X, phường V, thị xã C. L đến nhà L và xảy ra mâu thuẫn với Lâm Thảo N, sinh năm 1993, thường trú khu phố X, phường Z, thị xã C (con dâu bà H) nên được Công an phường Z thụ lý giải quyết.

Khong 22 giờ cùng ngày, Phạm Nhựt T, sinh năm 1993, thường trú khu phố X, phường Z, thị xã C (con bà H, chồng N) nghe bà H điện thoại cho N kể việc bị anh Phước L2 chửi và hăm dọa nên T điện Lâm Hoàng P, sinh năm 2001, thường trú khu phố X, phường Z, thị xã C (em N) đi cùng T đến nhà anh Phước L2 nói chuyện cho rõ sự việc. Do đang đi chơi cùng nên thấy P điều khiển xe chạy đi thì Nguyễn Tấn L, sinh năm 2003 thường trú khu phố 1, phường Z và Nguyễn Hoàng B, sinh năm 2005, thường trú khu phố X, phường V, thị xã C điều khiển xe chạy theo P. Lúc này Nguyễn Văn P, sinh năm 2001, thường trú khu phố X, phường Z điện thoại cho P đang ở đâu để đến chơi thì P nói đang ở nhà T. P nhờ Nguyễn Phước T2, sinh năm 2002, thường trú khu phố A, phường B, thị xã C chở đến nhà T. Tại nhà, T kể cho P nghe việc anh Phước L2 chửi bà H, P chở T đến nhà anh Phước L2. B, P và Tấn L thấy P chở T đi nên cả ba đi theo P và T. Khi đến nhà anh Phước L2, P đậu xe ở ngoài, T đi vào gặp anh Phước L2 đang ngồi uống nước cùng anh Trần Tuấn A, sinh năm 1994, thường trú khu phố X, phường Z, thị xã C. T đứng nói chuyện với anh Phước L2 thì dẫn đến mâu thuẫn giữa T và anh Phước L2, trong lúc cải vả T dùng chân đá 2 cái vào mông anh Phước L2, thấy anh Phước L2 chạy vào trong, P cho rằng Phước L2 chạy vào lấy hung khí đánh T nên ôm lại, T tiếp tục đánh 02 cái vào vai anh Phước L2 và cùng P kéo anh Phước L2 ra lộ. Thấy đánh nhau nên anh A cầm ghế đứng dậy để tự vệ thì bị P xông vào dùng tay đánh và cầm ly thủy tinh ném vào người anh A, P chạy ra lộ lượm 02 cục bê tông rồi dùng 01 cục bê tông đánh trúng 02 cái vào trán anh A. B thấy vậy dùng ghế nhựa đánh anh A nhưng bị vướng dây phơi quần áo nên không trúng, B tiếp tục dùng tay đánh 03 cái vào mặt và đầu anh A làm anh A té nên B dùng tay đánh vào lưng anh A. Tấn L dùng ghế nhựa đánh 02 cái trúng vào vai phải anh A và bị rơi ghế, Tấn L tiếp tục dùng tay đánh 03 cái trúng vào mặt và đầu làm anh A té, L dùng bàn inox đánh 1 cái trúng vào vai trái của anh A. P cầm áo kéo anh A ra lộ, Tấn L dùng bàn inox đánh 02 cái vào chân anh A. Sau đó tất cả lên xe bỏ đi. Anh Phước L2 đến Công an phường 1 trình báo.

Vật chứng thu giữ:

+ 01 ghế nhựa màu xanh, cao 65cm, mặt ngồi cao 34cm, mặt lưng tựa có vết nứt dài 07cm.

+ 01 bàn inox, mặt bàn hình tròn, đường kính 82cm, mặt bàn cáo 57cm, mặt bàn thụng móp, nhiều điểm bung hở khỏi các giá đỡ.

+ 01 khối bê tông, không rõ hình dạng, kích thước 21x08x4,5cm, nặng 400g.

+ 01 viên gạch đất nung, hình ống kích thước 7,5 x 7,5 x 18 cm.

Giấy chứng nhận thương tích số 12/CN-BV ngày 11/01/2022 của Bệnh viện đa khoa khu vực C chứng nhận thương tích của anh Trần Tuấn A: Đau đầu, đau vai (P); Sưng bầm mắt (P), mũi, vùng chẩm, cánh tay (P), trán; Xây xát vùng hai vai phía sau, sau cổ, khuỷu (P), cổ tay (T), đùi (P), gối 2 bên, cẳng chân 2 bên, ngón I bàn chân (P), đỉnh chẩm.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số 20/2022/TgT ngày 12/01/2022 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Tiền Giang kết luận thương tích của Trần Tuấn A như sau:

+ Sưng bầm mi dưới mắt phải gây thay đổi sắc tố da. Tỷ lệ 0.5%.

+ Xây xát da vai phải gây thay đổi sắc tố da. Tỷ lệ 0.5%.

+ Xây xát da vai trái gây thay đổi sắc tố da. Tỷ lệ 0.5%.

+ Xây xát da 1/3 giữa đùi phải gây thay đổi sắc tố da. Tỷ lệ 0.5%.

+ Xây xát da gối phải gây thay đổi sắc tố da. Tỷ lệ 0.5%.

+ Xây xát da gối trái gây thay đổi sắc tố da. Tỷ lệ 0.5%.

+ Xây xát da đốt gần ngón I bàn chân phải gây thay đổi sắc tố da. Tỷ lệ 0.5%.

+ Xây xát da 1/3 giữa sau cánh tay phải gây thay đổi sắc tố da. Tỷ lệ 0.5%.

+ Xây xát da khuỷu tay phải gây thay đổi sắc tố da. Tỷ lệ 0.5%.

Tng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 04%. Thương tích do vật tầy gây nên.

Giấy chứng nhận thương tích số 11/CN-BV ngày 11/01/2022 của Bệnh viện đa khoa khu vực C chứng nhận thương tích của anh Võ Phước L2: Đau cổ; Sưng đau vùng trán, mũi, vai (T), mông (T), đùi (P), cẳng tay (P), cổ tay (T); Xây xát vùng trước cổ, vai (T), mông (T), đùi (P), sau gáy.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số 18/2022/TgT ngày 12/01/2022 của Trung tâm giám định pháp y tỉnh Tiền Giang kết luận thương tích của Võ Phước L2 như sau:

+ Sưng bầm và xây xát da vai trái gây thay đổi sắc tố da. Tỷ lệ 01%.

+ Xây xát da trước cổ 1/3 giữa xương đòn trái gây thay đổi sắc tố da. Tỷ lệ 0.5%.

+ Xây xát da mông trái gây thay đổi sắc tố da. Tỷ lệ 0.5%.

Tng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 02%. Thương tích do vật tầy gây nên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 79/2022/HS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn P, Nguyễn Tấn L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38, 58 Bộ luật Hình sự; Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bắt bị cáo để chấp hành hình phạt tù.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn L 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bắt bị cáo để chấp hành hình phạt tù.

Ngoài ra trong bản án còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

* Ngày 10 tháng 10 năm 2022, bị cáo Nguyễn Văn P và bị cáo Nguyễn Tấn L có đơn kháng cáo với nội dung: Xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa:

- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản án sơ thẩm đã tuyên, hai bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Đơn kháng cáo của các bị cáo trong hạn luật định nên được cấp phúc thẩm xem xét. Về nội dung kháng cáo: Cấp sơ thẩm đã phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân cùng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo, mức án Tòa án cấp sơ thẩm tuyên đối với các bị cáo là có phần nghiêm khắc, các bị cáo nhất thời thực hiện hành vi phạm tội, thuộc trường hợp phạm tội lần đầu, ít nghiêm trọng, được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo các điểm b, i , s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận 01 phần kháng cáo, sửa án sơ thẩm theo hướng giảm cho mỗi bị cáo 03 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn P và Nguyễn Tấn L đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng và Bản án sơ thẩm đã nêu, lời nhận tội của các bị cáo là phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã thể hiện: Vào khoảng 22 giờ ngày 06/01/2022, tại khu phố X, phường Z, thị xã C, tỉnh Tiền Giang, các bị cáo P, B, L đã có hành vi dùng cục bê tông, bàn inox là hung khí nguy hiểm đánh vào người anh Trần Tuấn A nhiều cái gây thương tích với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 04%. Do đó cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P và bị cáo Nguyễn Tấn L về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xét thấy giữa các bị cáo với bi hại không có mâu thuẫn trực tiếp với nhau nhưng các bị cáo đã dùng tay, cục bê tông, bàn inox là những hung khí nguy hiểm gây ra thương tích cho bị hại là anh A. Hành vi của các bị cáo không chỉ xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn thể hiện thái độ hung hăng xem thường pháp luật. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và giúp phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, áp dụng tình tiết giảm nhẹ xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 09 tháng tù và bị cáo Nguyễn Tấn L 09 tháng tù là có căn cứ. Tuy nhiên, xét thấy hành vi của các bị cáo chỉ bộc phát nhất thời, nguyên nhân phát sinh ban đầu là mâu thuẩn giữa người thân của các bị cáo và bị hại và xuất phát từ cãi vã không thể dung hòa dẫn đến xô xát, các bị cáo đã dùng hung khí đánh bị hại gây thương tích. Đây không phải là bản chất hung hăng của các bị cáo, họ là dân lao động nhất thời phạm tội. Hậu quả xảy ra không nghiêm trọng, sau vụ án cáo bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả theo yêu cầu của bị hại. Bản án sơ thẩm xử phạt mỗi bị cáo 09 tháng tù là có phần nghiêm khắc. Căn cứ tính chất mức độ của hành vi phạm tội, thái độ của các bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận 01 phần kháng cáo của hai bị cáo, giảm cho mỗi bị cáo 03 tháng tù. Với mức án trên cho thấy cũng đủ để giáo dục răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Xét ý kiến và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về án phí: Bị cáo P và L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn P và Nguyễn Tấn L.

1. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 79/2022/HS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn P, Nguyễn Tấn L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38, 58 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bắt bị cáo để chấp hành hình phạt tù.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn L 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bắt bị cáo để chấp hành hình phạt tù.

2. Án phí: Bị cáo Nguyễn Văn P và Nguyễn Tấn L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 14/2023/HS-PT

Số hiệu:14/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về