Bản án về tội cố ý gây thương tích số 14/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 225/2020/TLST- HS ngày 23 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 233/2019/ QĐXXST- HS ngày 29 tháng 12 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2021/HSST - QĐ ngày 11/01/2021 đối với bị cáo:

Phạm Tấn L, sinh ngày 23/10/1982 tại tỉnh Quảng Ngãi; thường trú: thôn P, xã T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: tài xế; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Đình B và bà Đỗ Thị S; có vợ tên Võ Thị L; có 02 người, lớn nhất sinh năm 2004 và nhỏ nhất sinh năm 2020 tiền án: không; tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 28/4/2020 (hiện đang tạm giam tại công an huyện Hóc Môn). Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Những người tham gia tố tụng khác:

Người bị hại: Ông Cao Vũ Thanh G, sinh năm: 1984 (có mặt) Địa chỉ: 17/2Q ấp Đ, xã B, huyện H, Tp. Hồ Chí Minh.

Người bào chữa cho bị cáo Phạm Tấn L có Luật sư Cáp Chiến Th thuộc Trung tâm tư vấn pháp luật Hội luật gia huyện Hóc Môn. (có mặt) Địa chỉ: 3/25 quốc lộ 22, khu phố C, thị trấn H, huyện HM, Tp. Hồ Chí Minh.

Người bảo vệ quyền và L ích hợp pháp cho người bị hại Cao Vũ Thanh G có Luật sư Trịnh Thị Ph của Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên Th thuộc Đoàn luật sư Tp. Hồ Chí Minh. (có mặt) Địa chỉ: 490/17 Lê Văn S, phường M, quận N, Tp. Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Tấn L và Cao Vũ Thanh G cùng thuê trọ tại dãy phòng trọ số 17/2Q, ấp Đ, xã B, huyện H. Giữa hai nhà có mâu thuẫn với nhau. Khoảng 20 giờ ngày 23/6/2019, L ngủ trong phòng trọ thì nghe Cao Vũ Thanh G đứng trước sân chửi nên bước ra ngoài, hai bên xảy ra cãi vã. L chạy vào nhà lấy một con dao dài khoảng 32 cm, đường kính 8cm chạy ra thì có anh Hồ Bảo Tr (là quản lý dãy phòng trọ) ôm L, can ngăn không cho đánh nhau, G cũng cầm hai thanh sắt dài khoảng 1m, đường kính 21 cm đánh vào người L, L đưa tay trái nên đỡ và vùng thoát khỏi anh T rồi dùng dao chém vùng đầu, tay trái và vùng sườn trái của G. G bị ngã khuỵu nên hai thanh sắt đâm vào bụng của L. Sau đó, G bỏ chạy ra ngoài đường và được người dân đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Thống Nhất. Ngày 24/6/2019, L đến Công an xã Bà Điểm trình diện.

Tại kết luận giám pháp y số 31/TgT.20 ngày 20/01/2020 của Trung tâm Pháp y TP. Hồ Chí Minh đối với thương tích của Cao Vũ Thanh G:

- Vết thương tại vùng trán thái dương trái gây đứt da, gãy lún sọ có mảnh rời, rách màng cứng, dập não đã được điều trị mổ gặm sọ lõm, lấy máu tụ và mô não dập và, vá sọ bằng miếng lưới titan, đặt dẫn lưu, hiện còn:

+ Một sẹo chém và mổ phẳng kích thước 19x (0,2-0,4)cm.

+ Một sẹo dẫn lưu phẳng tại đỉnh trái kích thước 1,8x0,8cm.

+ Hình ảnh khuyết sọ đáy cứng kích thước 3,9x3,2cm trên phim chụp cắt lớp vi tính.

+ Hình ảnh phù nhẹ vài cuống não và tụ ít dịch dưới màng cứng trái trên phim cộng hưởng từ.

Có tỉ lệ 37% (ba mươi bảy phần trăm) - Vết thương tại mặt sau trong 1/3 giữa cẳng tay trái gây đứt da, đứt gân gấp nông ngón III, IV và V, gân gấp sâu ngón V, gân gấp cổ tay trụ, gân duỗi ngón I,II, III và IV, gân duỗi cổ tay trụ, bó mạch thần kinh gian cốt sau, bó mạch thần kinh trụ, gãy xương trụ đã được điều trị mổ kết hợp xương, khâu nối thần kinh, động mạch, đặt dẫn lưu, hiện còn:

+ Một sẹo chém và mổ phẳng kích thước 18,9x(0,2x0,5)cm.

+ Hình ảnh kết hợp xương và mẻ xương quay ngay vị trí vết thương trên phim Xquang + Tổn thương dây thần kinh trụ trên điện cơ đồ.

+ Bàn tay vuốt trụ, teo cơ mô út và cơ gian cốt, tê bờ trụ tay. Có tỉ lệ 32% (ba mươi hai phần trăm).

Các thương tích trên do vật sắc, vật sắc nhọn tác động gây ra, gây nguy hiểm đến tính mạng đương sự.

- Vết thương tại mặt sau 1/3 dưới cánh tay trái gây lóc da đã được điều trị, hiện còn một sẹo lồi nhẹ kích thước 6,5x(0,1x0,8)cm, tình trạng ổn định.

Có tỉ lệ 03% (Ba phần trăm) Thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn tác động gây ra, không gây nguy hiểm đến tính mạng đương sự.

- Vết thương phần mềm tại mạn sườn trái đã được điều trị, hiện còn một sẹo lồi nhẹ kích thước 11,2x(0,2x0,8)cm, tình trạng ổn định.

Có tỉ lệ 03% (Ba phần trăm).

Thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc tác động gây ra, không gây nguy hiểm đến tính mạng đương sự.

Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 60% (Sáu mươi phần trăm). (bút lục 76-81) Tại Kết luận giám định số 1182/TgT.19 ngày 31/12/2019 của Trung tâm Pháp y TP.Hồ Chí Minh đối với thương tích của Phạm Tấn L: Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 10%. Các chấn thương không gây nguy hiểm đến tính mạng đương sự. (bút lục 82-85) Ngày 26/02/2020, Cơ quan điều tra ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự để điều tra, làm rõ. Ngày 30/3/2020, ra Quyết định khởi tố bị can, Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Phạm Tấn L về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Ngày 30/7/2020, Phạm Tấn L có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với Cao Vũ Thanh G.

Ngày 13/10/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn ra Quyết định khởi tố bị can, áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Cao Vũ Thanh G.

Ngày 22/10/2020, Phạm Tấn L rút đơn tố cáo, không yêu cầu xử lý hình sự đối với Cao Vũ Thanh G, ngày 23/10/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn ra Quyết định đình chỉ điều tra bị can đối với Cao Vũ Thanh G theo khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Cao Vũ Thanh G có đơn bãi nại không yêu cầu xử lý hình sự đối với Phạm Tấn L. Về dân sự, G yêu cầu L bồi thường số tiền 344.153.000 đồng, L đã bồi thường số tiền 36.000.0000 đồng.

Vật chứng:

- 01 con dao bằng kim loại, dài khoảng 35cm, rộng khoảng 8cm;

- 03 cây sắt tròn có đường kính 21mm (02 cây dài 1,05m, 01 cây dài 96cm), có một đầu nhọn được sơn màu đỏ.

Tại bản cáo trạng số 213/CT-VKS-HS ngày 20 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Phạm Tấn L về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c, khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh sau khi nêu lại nội dung vụ án, phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với người bị hại và đối với xã hội, sau khi nêu lên những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo đã đề nghị áp dụng điểm c, khoản 3 Điều 134; điểm b, điểm s khoản 1, khỏan 2; Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phạm Tấn L từ 05(năm) năm 06(sáu) tháng đến 06(sáu) năm 06(sáu) tháng tù.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 con dao bằng kim lọai dài khoảng 35cm, rộng khoảng 8cm, 03 cây sắt tròn có đường kính 21mm và buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Cao Vũ Thanh G theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Tấn L khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án nhẹ.

Luật sư Cáp Chiến Th bào chữa cho bị cáo Phạm Tấn L phát biểu:

Đồng ý về tội danh và điều khoản mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn truy tố. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét. Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, và đã khắc phục một phần hậu quả, người bị hại có đơn bãi nại không yêu cầu xử lý hình sự, bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự, bị cáo đã đến trình diện tại cơ quan có thẩm quyền, bị cáo có người thân được tặng huân chương kháng chiến hạng nhì, hiện nay gia đình bị cáo rất khó khăn và có con nhỏ sinh năm 2020. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) cho bị cáo hưởng mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh đã đề nghị.

Người bị hại và Người bảo vệ quyền và Lợi ích hợp pháp cho người bị hại Cao Vũ Thanh G có Luật sư Trịnh Thị Ph phát biểu:

Tôi đồng ý với tội danh và điều khoản mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo Phạm Tấn L. Về phần dân sự ngòai số tiền 36.000.000 đồng anh G đã nhận của phía gia đình bị cáo thì tại phiên tòa hôm nay anh G yêu cầu bị cáo bồi thường thêm 380.000.000 đồng cụ thể: tiền chi phí tiền xe cấp cứu đi lại taxi điều trị gồm tiền thuốc, viện phí là 50.153.000 đồng; chi phí tiền công cho người chăm sóc bệnh nhân trong thời gian nằm viện là 52.500.000 đồng; tiền bồi dưỡng ăn uống cho người bệnh là 31.500.000 đồng; chi phí hậu phẫu thuật lấy nẹp ra tạm tính là 30.000.000 đồng; tiền thu nhập bị mất của người bị hại trong khoảng thời gian bị bệnh không thể đi làm là 100.000.000 đồng (500.000 đồng một ngày); tiền thu nhập thực tế bị mất từ ngày 24/6/2019 đến ngày 30/12/2019 là 100.000.000 đồng; tiền bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần là 12 tháng lương cơ bản của Nhà nước (1.490.000đ x 12 tháng = 17.880.000 đồng). Trước khi xảy ra vụ án, người bị hại làm nghề xây dựng có ký hợp đồng lao động (thời vụ) thu nhập mỗi ngày 500.000 đồng.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại; Người bào chữa cho bị cáo; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo, Người bảo vệ quyền và L ích hợp pháp cho người bị hại xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật; Luật sư, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Tấn L khai nhận hành vi phạm tội Cố ý gây thương tích của mình như đã khai nhận tại cơ quan điều tra. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, bản kết luận giám định pháp y cùng các lời khai và chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 23/6/2019 bị cáo Phạm Tấn L có hành vi cầm dao chém anh G gây thương tích.

Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 31/TgT.20 ngày 20/01/2020 của Trung tâm pháp y thành phố Hồ Chí Minh kết luận: đối với thương tích của Cao Vũ Thanh G như sau:

1.Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vết thương tại vùng trán thái dương trái gây đứt da, gãy lún sọ có mảnh rời, rách màng cứng, dập não đã được điều trị mổ gặm sọ lõm, lấy máu tụ và mô não dập và, vá sọ bằng miếng lưới titan, đặt dẫn lưu, hiện còn:

+ Một sẹo chém và mổ phẳng kích thước 19x (0,2-0,4)cm.

+ Một sẹo dẫn lưu phẳng tại đỉnh trái kích thước 1,8x0,8cm.

+ Hình ảnh khuyết sọ đáy cứng kích thước 3,9x3,2cm trên phim chụp cắt lớp vi tính.

+ Hình ảnh phù nhẹ vài cuống não và tụ ít dịch dưới màng cứng trán tr ái trên phim cộng hưởng từ.

Có tỉ lệ 37% (ba mươi bảy phần trăm)

- Vết thương tại mặt sau trong 1/3 giữa cẳng tay trái gây đứt da, đứt gân gấp nông ngón III, IV và V, gân gấp sâu ngón V, gân gấp cổ tay trụ, gân duỗi ngón I,II, III và IV, gân duỗi cổ tay trụ, bó mạch thần kinh gian cốt sau, bó mạch thần kinh trụ, gãy xương trụ đã được điều trị mổ kết hợp xương, khâu nối thần kinh, động mạch, đặt dẫn lưu, hiện còn:

+ Một sẹo chém và mổ phẳng kích thước 18,9x(0,2x0,5)cm.

+ Hình ảnh kết hợp xương và mẻ xương quay ngay vị trí vết thương trên phim Xquang.

+ Tổn thương dây thần kinh trụ trên điện cơ đồ.

+ Bàn tay vuốt trụ, teo cơ mô út và cơ gian cốt, tê bờ trụ tay. Có tỉ lệ 32% (ba mươi hai phần trăm).

Các thương tích trên do vật sắc, vật sắc nhọn tác động gây ra, gây nguy hiểm đến tính mạng đương sự.

- Vết thương tại mặt sau 1/3 dưới cánh tay trái gây lóc da đã được điều trị, hiện còn một sẹo lồi nhẹ kích thước 6,5x(0,1x0,8)cm, tình trạng ổn định.

Có tỉ lệ 03% (Ba phần trăm).

Thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn tác động gây ra, không gây nguy hiểm đến tính mạng đương sự.

- Vết thương phần mềm tại mạn sườn trái đã được điều trị, hiện còn một sẹo lồi nhẹ kích thước 11,2x(0,2x0,8)cm, tình trạng ổn định.

Có tỉ lệ 03% (Ba phần trăm).

Thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc tác động gây ra, không gây nguy hiểm đến tính mạng đương sự.

2. Theo Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế quy định tỉ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần:

Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 60% (Sáu mươi phần trăm).

[3] Hành vi dùng dao dài khoảng 32 cm, đường kính 8cm gây nên thương tích cho người bị hại với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 60% nêu trên của bị cáo Phạm Tấn L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, tội danh và hình phạt quy định tại điểm c, khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015. Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố để xét xử bị cáo theo điều luật đã viện dẫn trên là đúng người, đúng tội, nên buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo luật định.

[4] Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo là táo bạo và thực sự nguy hiểm cho xã hội, thể hiện ý thức xem thường pháp luật, xâm phạm đến quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang, lo ngại cho quần chúng nhân dân và dư luận xấu trong xã hội, chỉ vì mâu thuẫn trong việc nhỏ mà bị cáo có hành vi dùng dao chém người bị hại gây thương tích, trong vụ án này người bị hại cũng có một phần lỗi do chửi bới khiêu khích bị cáo trước và hai bên cầm hung khí lao vào đánh nhau. Hành vi của bị cáo cần được nghiêm trị để răn đe chung và cải tạo giáo dục riêng đối với bị cáo. Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử có xem xét:

[5] Xét về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Xét về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình , bị cáo đã khắc phục được một phần hậu qủa bồi thường cho người bị hại số tiền 36.000.0000 đồng, sau khi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan có thẩm quyền trình diện, bị cáo có người thân được tặng huân chương kháng chiến hạng nhì, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy nên áp dụng điểm b, điểm s khoản 1, khỏan 2 Điều 51 Bộ luật hình sự có phần giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[7] Đối với thương tật mà anh Cao Vũ Thanh G gây ra cho bị cáo có tỷ lệ 10% thì bị cáo đã rút đơn tố cáo không yêu cầu xử lý hình sự đối với anh G và cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn ra Quyết định đình chỉ điều tra đối với Cao Vũ Thanh G theo khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự là đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về trách nhiệm dân sự. Xét yêu cầu của người bị hại, Hội đồng xét xử xét thấy:

- Đối với yêu cầu bồi thường chi phí gồm tiền thuốc, viện phí, tiền xuất viện tái khám là 46.453.000 đồng. Xét thấy người bị hại đã cung cấp cho tòa án đầy đủ các hóa đơn, biên lai viện phí, vì vậy buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại số tiền 46.453.000 đồng.

- Đối với yêu cầu bồi thường chi phí đi cấp cứu và đi xe taxi với số tiền 3.700.000 đồng. Căn cứ vào các liệt kê của người bị hại về chi phí đi lại trong tất cả các lần nhập viện, xuất viện và tái khám thì tiền taxi là 3.700.000 đồng, mặc dù người bị hại không cung cấp đầy đủ cho tòa án các hóa đơn sử dụng phương tiện đi lại nhưng xét đây là chi phí thực tế của người bị hại phải chi trả nên Hội đồng xét xử chấp nhận và buộc bị cáo bồi thường số tiền 3.700.000 đồng.

- Đối với yêu cầu bồi thường tiền bị mất thu nhập của người bị hại từ ngày 24/6/2019 đến ngày 30/12/2019 là 100.000.000 đồng. Xét thấy thời gian điều trị của người bị hại tính đến ngày tái khám cuối cùng cùng (nhập viện từ ngày 24/6/2019 đến ngày 08/10/2019) là 3,5 tháng. Theo hợp đồng lao động ngày 20/5/2019 thì người bị hại làm việc có mức lương mỗi ngày 500.000 đồng, mỗi tuần làm việc 06 ngày. Như vậy, thu nhập thực tế bị mất của người bị hại là: 92 ngày x 500.000 đồng = 46.000.000 đồng nên buộc bị cáo phải bồi thường cho người bị hại số tiền nêu trên.

- Đối với yêu cầu bồi thường chi phí giảm sút sức khỏe về sau là 100.000.000 đồng. Xét thấy yêu cầu của người bị hại là không có cơ sở nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu này của người bị hại.

- Đối với yêu cầu bồi thường tiền thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc cho người bị hại từ ngày 24/6/2019 đến ngày 30/12/2019 là 52.500.000 đồng. Xét thấy Giấy ra viện ngày 02/7/2019 thì người bị hại nhập viện ngày 23/6/2019 và ra viện ngày 02/7/2019 và Giấy ra viện ngày 09/10/2019 thì ng ười bị hại nhập viện ngày 30/9/2019 và ra viện ngày 08/10/2019 như vậy thời gian điều trị của người bị hại tính tổng cộng là 19 ngày. Theo yêu cầu của người bị hại thì người nuôi bệnh làm nội trợ có mức thu nhập bình quân 250.000.000 đồng/ngày. Như vậy, thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc cho người bị hại: 250.000 đồng x 19 ngày = 4.750.000 đồng, do đó Hội đồng xét buộc bị cáo phải bồi thường số tiền 4.750.000 đồng cho người bị hại.

- Đối với yêu cầu bồi thường chi phí tiền ăn, tiền sữa bồi dưỡng sức khỏe cho người bị hại từ ngày 24/6/2019 đến ngày 30/12/2019 là 31.500.000 đồng. Xét thấy việc ăn uống là nhu cầu hàng ngày của người bị hại không phải là thiệt hại. Ngoài ra, việc bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị hại cần phải có chỉ định của bác sỹ mới được xem là chi phí hợp lý. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu này của người bị hại.

- Đối với yêu cầu bồi thường chi phí tiền hậu phẫu thuật tạm tính là 30.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy thực tế việc hậu phẫu thuật chưa xảy ra, do đó yêu cầu của người bị hại là không có cơ sở nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. Nếu người bị hại có tranh chấp thì sau này sẽ khởi kiện bằng một vụ kiện dân sự khác nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, anh G chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là 12 tháng luơng cơ bản (vì trước đây bị cáo và gia đình đã bồi thường cho anh G số tiền 36.000.000 đồng rồi) và bị cáo cũng đồng ý bồi thường theo yêu cầu của anh G. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của anh G và sự tự nguyện của bị cáo là chính đáng, đúng với quy định pháp luật nên chấp nhận và buộc bị cáo phải bồi thường cho anh G tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là 12 tháng lương cơ bản: 1.490.000 đồng x 12 tháng = 17.880.000 đồng.

Từ căn cứ trên Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu của người bị hại, buộc bị cáo bồi thường thiệt hại cho người bị hại Cao Vũ Thanh G số tiền tổng cộng là: 46.453.000 đồng + 3.700.000 đồng + 46.000.000 đồng + 4.750.000 đồng + 17.880.000 đồng = 118.783.000 đồng.

[9] Về xử lý vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 con dao bằng kim loại, dài 35cm, bản rộng 8cm và 03 cây sắt tròn có đường kính 21mm (02 cây dài 1,05m, 01 cây dài 96cm) là công cụ phuơng tiện phạm tội và vật không có giá trị nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và và 5.939.150 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Tấn L phạm tội “ Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng điểm c, khoản 3 Điều 134; điểm b, điểm s khoản 1, khỏan 2 Điều 51; các Điều 32; 38; 50 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Tấn L 06 (sáu) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 28/4/2020.

- Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Tạm giam bị cáo Phạm Tấn L 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

- Áp dụng điểm a, khỏan 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

- Áp dụng điểm a, điểm c khỏan 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 con dao bằng kim loại, dài 35cm, bản rộng 8cm và 03 cây sắt tròn có đường kính 21mm (02 cây dài 1,05m, 01 cây dài 96cm).

(Tang vật được ghi theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh).

- Áp dụng Điều 357; Điều 590 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Cao Vũ Thanh G số tiền 118.783.000 đồng(một trăm mười tám triệu bảy trăm tám mươi ba nghìn đồng) thi hành một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật, thực hiện tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thi hành đối với khoản tiền bồi thường, hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

- Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Tấn L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 5.939.150đ(năm triệu chín trăm ba mươi chín nghìn một trăm năm mươi đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

- Áp dụng các Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để xin xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 14/2021/HS-ST

Số hiệu:14/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về