Bản án về tội cố ý gây thương tích số 110/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 110/2023/HS-PT NGÀY 25/04/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 25 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 79/2023/TLPT-HS ngày 27 tháng 02 năm 2023 đối với Nguyễn Văn T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HS-ST ngày 10/01/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Văn T; giới tính: nam; sinh năm: 1984 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 76/36/36 đường số MC, khu phố B, phường LC, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: nhân viên giao hàng; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông NVK và bà PTM; hoàn cảnh gia đình: có vợ và 01 con sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: không có.

Nhân thân: Ngày 10/12/2002 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/6/2005. Cơ quan thi hành án chưa thụ lý, thi hành án phần án phí do chưa nhận được bản án.

Bị cáo tại ngoại (có mặt).

Người bào chữa: Ông TVN – Luật sư Công ty Luật TNHH MTV PT thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Nguyễn Thị H và Ngô Thị Thanh T1 thuê chung mặt bằng tại chung cư CD, địa chỉ số 34, đường số MH, khu phố N, phường TT, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh để mở cửa hàng tạp hóa, trong đó bà H bán rau, bà T1 bán thịt cá. Ngày 03/12/2021, bà T1 nói với bà H không thuê mặt bằng nữa và xin dọn đồ ra ngoài, bà H đồng ý. Ngày 08/12/2021, bà H nhập hàng về bán nhưng thấy tủ đông của bà T1 vẫn để trong cửa hàng nên bà H đã dọn dẹp đẩy ra ngoài. T1 kể lại sự việc trên cho chồng là Nguyễn Văn T nghe. Do bực tức, khoảng 19 giờ 45 phút cùng ngày, T đến gặp bà H tại trước căn hộ B01.05, chung cư CD để nói chuyện thì xảy ra mâu thuẫn, sau đó T lấy 01 thanh gỗ loại ba lết (kích thước khoảng 100x08cm) đánh vào chân trái của bà H gây thương tích. Bà H được người nhà đưa đi bệnh viện điều trị vết thương đến ngày 14/12/2021, bà H đến Công an phường Trường Thọ trình báo sự việc.

Ngày 15/12/2021, bà Nguyễn Thị H viết đơn yêu cầu xử lý hình sự và giám định thương tích.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 286/TgT.22 ngày 22/4/2022 của Trung tâm giám định pháp y Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Vết thương phần mềm mặt ngoài 1/3 dưới cẳng chân chân trái đã được điều trị hiện còn một sẹo kích thước 6,1x(0,3-0,5)cm, tình trạng ổn định. Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 02%.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 14/2023/HSST ngày 10/01/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 10/01/2023, bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa phúc thẩm nêu quan điểm kết luận cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp tài liệu xác định đã nộp số tiền 5.000.000 đồng để khắc phục hậu quả mặc dù trước đó bị hại không có yêu cầu bồi thường thể hiện sự ăn năn hối cải. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, giảm cho bị cáo từ 03 đến 06 tháng tù.

Luật sư bào chữa cho bị cáo nêu ý kiến: Thống nhất về tội danh và điều khoản Tòa cấp sơ thẩm đã áp dụng xét xử đối với bị cáo. Tuy nhiên, về mức hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hành vi của bị cáo mang tính bộc phát, nhất thời, bị cáo chỉ đánh bị hại 01 cái với thương tích nhỏ là 02% sau đó dừng lại. Sau khi sự việc xảy ra bị cáo nhận thức được sai lầm nên nhiều lần tới xin lỗi, khắc phục hậu quả nhưng bị hại không đồng ý. Tại giai đoạn xét xử sơ thẩm, bị cáo cũng có đơn nộp Tòa xin được khắc phục hậu quả nhưng không được xem xét chấp nhận nên ngày 14/4/2023 bị cáo đã tự nguyện nộp vào tài khoản của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh số tiền 5.000.000 đồng để khắc phục hậu quả. Bị cáo có cha là người có công với cách mạng, hiện là lao động chính nuôi 03 con nhỏ đang đi học, bị cáo có công việc ổn định, có nơi cư trú rõ ràng.

Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm b, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự tuyên xử mức án thấp nhất của khung hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo trong hạn luật định nên hợp lệ. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà nội dung bản án sơ thẩm đã nêu, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 08/12/2021, tại trước căn hộ B01.05, chung cư CD địa chỉ số 34, Đường số MH, khu phố N, phường TT, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn T đã dùng 01 thanh gỗ loại ba lết (kích thước khoảng 100x08cm) đánh vào chân trái của bà Nguyễn Thị H gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 02%.

Ngày 15/12/2021, bà H có đơn yêu cầu khởi tố đối với T. Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh tuyên bố bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Về kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử đánh giá như sau:

Khi nghe bà T1 kể lại sự việc mâu thuẫn với bà Nguyễn Thị H, bị cáo ra sạp bán hàng thì thấy đồ đạc của mình đã bị bà H kéo ra ngoài. Lúc này, giữa bị cáo và bà H có lời qua tiếng lại nên bị cáo cầm cây đánh vào chân bà H một cái gây thương tích nhẹ. Xét hành vi của bị cáo là nhất thời phạm tội, thương tích gây cho bà H có phần hạn chế. Mặc dù người bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường và bản án sơ thẩm không buộc bị cáo bồi thường nhưng trước khi mở phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã tự nguyện khắc phục bồi thường cho bị hại thể hiện ăn năn hối cải. Bị cáo có cha tham gia kháng chiến chống Mỹ, được tặng thưởng nhiều huân, huy chương nên giảm cho bị cáo một mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa là phù hợp.

Đối với số tiền 5.000.000 đồng bị cáo đã nộp, do bản án sơ thẩm không buộc bị cáo bồi thường đồng thời bị hại cũng không có yêu cầu bồi thường nên bị cáo T được quyền liên hệ Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh để nhận lại.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T. Sửa bản án sơ thẩm.

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Bị cáo Nguyễn Văn T được quyền liên hệ Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh để nhận lại số tiền 5.000.000 đồng (Theo giấy nộp tiền ngày 14/4/2023 của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam).

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

64
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 110/2023/HS-PT

Số hiệu:110/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về