Bản án về tội cố ý gây thương tích số 106/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 106/2021/HS-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 29/9/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh T xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 101/2021/HSST ngày 26 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 118/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 9 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Trần Thị Kim Th (Tên gọi khác: Th M), sinh năm 1995; tại T; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Tổ 6, ấp N, xã B, huyện D, tỉnh T; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa: 5/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; con ông: Trần Thanh P, sinh năm 1972 và bà: Mai Thị H, sinh năm 1966; chồng: Nguyễn Trí N, sinh năm 1993 (đã chết); con: 01 người.

Tiền án, tiền sự: không có.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/4/2021 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Tiêu Minh Nh (Tên gọi khác: H N), sinh năm 2001; tại T; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: H7/3, khu phố H, phường H, thị xã H, tỉnh T; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không có; con ông: Tiêu Văn C, sinh năm 1970 và bà: Mai Thị Thanh L, sinh năm 1979; vợ, con: Không có.

Tiền án: không có.

Tiền sự:

- Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 11/QĐ-XPVPHC ngày 31/01/2019 của Công an thành phố T, tỉnh T xử phạt số tiền 1.750.000 đồng về hành vi hủy hoại tài sản (Bị cáo chưa nộp phạt).

- Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 35/QĐ-XPVPHC ngày 03/6/2019 của Công an thành phố T, tỉnh T xử phạt số tiền 1.250.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe người khác (Bị cáo chưa nộp phạt).

- Tại Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 13/QĐ-TA ngày 08/02/2021 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là 12 (Mười hai) tháng. Đến ngày 26/5/2021 tạm đình chỉ việc chấp hành cai nghiện bắt buộc chuyển tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thị xã H.

Nhân thân:

- Tại bản án số 08/2019/HSST ngày 08/11/2019 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T xử phạt bị cáo 09 (Chín) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”, bị cáo đã được xóa án tích do khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi.

- Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 58/QĐ-XPVPHC ngày 30/01/2018 của Công an thị xã H, tỉnh T xử phạt số tiền 350.000 đồng về hành vi tụ tập nhiều người nơi công cộng gây mất trật tự công cộng xảy ra ngày 17/11/2017 (Bị cáo chưa nộp phạt).

- Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 62/QĐ-XPVPHC ngày 30/01/2018 của Công an thị xã H, tỉnh T xử phạt số tiền 350.000 đồng về hành vi tụ tập nhiều người nơi công cộng gây mất trật tự công cộng xảy ra ngày 01/12/2017 (Bị cáo chưa nộp phạt).

- Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 44/QĐ-XPVPHC ngày 15/7/2019 của Công an thành phố T, tỉnh T xử phạt số tiền 1.250.000 đồng về hành vi hủy hoại tài sản (Bị cáo nộp phạt xong ngày 05/8/2019).

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26/5/2021 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Chị Bùi Thị Tường V, sinh năm 2000 (vắng mặt).

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 5, ấp Th, xã Th, huyện T, tỉnh T.

Nơi cư trú hiện nay: Khu phố 2, thị trấn T, huyện T, tỉnh T.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Nguyễn Thị Mỹ Ph, sinh năm 2003 (vắng mặt).

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Số 245, đường Liên xã, ấp Th, xã Th, huyện Châu Thành, tỉnh T.

2. Chị Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm 2000 (vắng mặt).

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Số 245, đường Liên xã, ấp Th, xã Th, huyện Châu Thành, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ ngày 04/9/2020, Bùi Thị Tường V cùng các bạn là Trần Thị Quỳnh Nh; Nguyễn Thị Mỹ Ph và một số người khác đến quán lẩu “N” thuộc phường 4, thành phố T, tỉnh T để ăn uống thì xảy ra mâu thuẫn với nhóm của Nguyễn Thị Anh Th (tự H K). Sau khi ăn uống xong, Th hẹn Bùi Thị Tường V đến nơi Th thuê phòng ở trọ nói chuyện thì V đồng ý. V cùng Ph, Quỳnh Nh, Lý Anh H; Lê Thị Tường V đến nhà trọ gặp Th. Trong lúc nói chuyện, Bùi Thị Tường V dùng nón bảo hiểm đánh trúng vào đầu và mặt của Th, đánh xong nhóm của Bùi Thị Tường V bỏ đi về.

Đến 21 giờ cùng ngày, Anh Th gọi điện thoại cho Trần Thị Kim Th (Th M kể lại sự việc mâu thuẫn giữa Th và Bùi Thị Tường V, đồng thời nhờ Th đứng ra giải quyết mâu thuẫn giữa hai bên thì Th đồng ý và kêu Th hẹn nhóm của Bùi Thị Tường V đến quán lẩu “N” để nói chuyện nhưng nhóm của Bùi Thị Tường V không đồng ý. Lúc này, Th đang đi ăn cùng bạn tại quán “F3-24 giờ” thuộc khu vực phường 4, thành phố T, tỉnh T nên Th cùng người bạn tên  (nam giới) và 01 người nữ là bạn của  (chưa rõ nhân thân, địa chỉ) đến quán “F3-24 giờ” gặp Th nói chuyện. Cùng lúc này, Tiêu Minh Nh (H No) nghe thông tin Th có xích mích và mâu thuẫn với nhóm của Bùi Thị Tường V nên gọi điện hỏi thì Th kêu Nh đến quán ăn để nói chuyện, Nh rủ bạn tên Qu (chưa rõ nhân thân, địa chỉ), Qu rủ thêm một người bạn nam (chưa rõ họ tên, địa chỉ) đi cùng đến quán “F3-24 giờ” gặp Th. Tại đây Th kể lại toàn bộ sự việc mâu thuẫn với nhóm của Bùi Thị Tường V cho nhóm của Nh nghe và dùng điện thoại của Th nhắn tin cho Bùi Thị Tường V, hẹn gặp nhau tại khu vực chùa Gò Kén thuộc khu phố L, phường Long Thành Tr, thị xã H, tỉnh T để giải quyết mâu thuẫn.

Khoảng 01 giờ ngày 05/9/2020, khi nhìn thấy nhóm của Bùi Thị Tường V chạy xe ngang qua trước quán “F3-24 giờ” thì Th, Nh, Th (H k), Â, Qug và những người trong nhóm cùng đi đến nơi hẹn. Trên đường đi, cả nhóm dừng lại cặp lề đường nhặt (lượm) đá xanh loại (4x6)cm đem theo làm hung khí.

Khi đến trước chùa Gò Kén, nhóm của V gồm: Bùi Thị Tường V; Lê Thị Tường V; Trần Thị Quỳnh Nh; Nguyễn Thị Mỹ Ph, Lý Anh H; Tạ Ngọc Như H; Đỗ Thị Ng và Trần Thị Thùy D tập trung đứng trước cổng chùa. Ph điện thoại cho chị ruột tên Nguyễn Thị Mỹ H nhờ H gọi cho Phan Tuấn Th đến chùa “Gò Kén” đứng ra giải quyết mâu thuẫn giữa hai nhóm. Th kêu thêm Lê Hoài B và Nguyễn Hùng Ng đi cùng. Khi đi Th mang theo 01 khẩu súng ngắn hiệu WINGUN, loại ổ quay, bắn đạn chì, Ng mang theo 01 cây dũ 03 khúc, B cầm 01 con dao dài khoảng 30cm. Đến nơi, Th phân công Bùi Thị Tường V, Ng, B đứng phía lề trái Quốc lộ 22B theo hướng từ thành phố T đến huyện Gò Dầu đối diện cổng chùa, Th đứng tại cổng chùa, những người còn lại đứng phía trong cổng chùa đợi nhóm của Th.

Một lúc sau, Th, Nh, Thư, Â, Qu, bạn của Qu và một số người khác đi chung với Th chưa rõ nhân thân, địa chỉ đi bằng nhiều xe môtô, mang theo nhiều loại hung khí chạy đến. Nhìn thấy những người bên nhóm Bùi Thị Tường V đang đứng bên đường thì Th chỉ tay về hướng Bùi Thị Tường V nói lớn “Nó kìa”, lập tức nhóm người đi cùng Th xông vào đánh Bùi Thị Tường V. Riêng Nh khi tới đầu dãy phân cách phía trước cổng chùa, xuống xe cầm đá ném về phía Th, đã bị Th dùng súng bắn trúng vào tay trái nên Nh đứng lại tại đầu giải phân cách. Th, Th, Â và những người đi cùng xông vào đuổi đánh nhóm người của Bùi Thị Tường V làm cả nhóm của V vừa bỏ chạy vào bên trong chùa Gò Kén, vừa dùng đá xanh chống trả. Khi Bùi Thị Tường V bị vấp ngã thì Qu, bạn của Qu và những người đi cùng (không rõ nhân thân địa chỉ) đã dùng dao, búa đâm, chém liên tiếp vào người làm Bùi Thị Tường V bị ngất. Thấy Bùi Thị Tường V bị thương chảy nhiều máu nên Th la lớn “Đừng đánh nữa nó chết à” thì tất cả dừng lại và bỏ đi về. Sau đó Bùi Thị Tường V đã được mọi người đi cấp cứu.

* Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: 01 đoạn lưỡi dao bằng kim loại màu trắng bị gãy hai đầu, kích thước (11,5x02)cm; 01 cán dao bằng gổ màu vàng kích thước (17x04x2,5)cm; 01 cục đá xanh kích thước (12x04)cm; 01 cục đá xanh kích thước (07x08)cm; 01 cục đá xanh kích thước (12x10)cm; 01 cục đá xanh kích thước (19x10)cm; 01 ống tuýp sắt, đầu có gắn lưỡi dao; 02 búa lưỡi hình bán nguyệt bằng kim loại; 01 dao tự chế dài 68cm (lưỡi bằng kim loại màu đen dài 34cm, rộng 6,5cm, càn bằng gổ dài 34cm). Ngoài ra còn thu giữ và đã xử lý một số vật chứng khác có liên quan (có bảng thống kê kèm theo).

* Tại Kết luận giám định số 178 ngày 03/11/2020 của Trung Tâm pháp y Sở y tế tỉnh T, kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Bùi Thị Tường V do thương tích gây nên hiện tại là: 32% (Ba mươi hai phần trăm).

Kết luận khác:

+ 02 vết sẹo vùng đỉnh chẩm từ trên xuống, kích thước 1,8x0,2cm và 1x0,2cm có tóc che lành tốt không có cơ sở y học trả lời thương tích do vật gì gây ra.

+ 02 vết sẹo vùng ngực trái từ trên xuống, kích thước 3x0,2 cm và 2x0,2 cm lành tốt phù hợp 01 vết sẹo do vật sắc, nhọn gây ra và 01 vết sẹo mổ dẫn lưu lành tốt.

+ 01 vết sẹo vùng ngực phải, kích thước 2,8x0,2 cm lành tốt phù họp do vật sắc, nhọn gây ra.

+ 01 vết sẹo mổ dẫn lưu vùng ngực phải, kích thước 2,6x1,8 cm lành tốt là sẹo để lại trong quá trình điều trị.

+ Tràn khí màng phổi trái đã điều trị hiện tại ổn định phù hợp do vật sắc, nhọn gây ra.

+ Tràn dịch màng phổi phải đã điều trị hiện tại ổn định phù hợp do vật sắc, nhọn gây ra.

+ 02 vết sẹo vùng lưng phải từ trên xuống, kích thước 3x0,4 cm và 8x0,4 cm lành tốt phù hợp do vật sắc, nhọn gây ra.

+ 01 vết sẹo vùng bụng phải, kích thước 1x0,2 cm lành tốt; 01 vết sẹo dẫn lưu vùng hố chậu phải, kích thước 1,8x0,5 cm lành tốt và 01 vết sẹo dưới rốn, kích thước 1x0,2 cm lành tốt là sẹo phẫu thuật để lại trong quá trình điều trị.

+ 01 vết sẹo vùng hông trái, kích thước 4x0,2 cm lành tốt phù hợp do vật sắc, nhọn gây ra.

+ 03 vết sẹo vùng mông trái từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, kích thước 1,8x0,2 cm; 3x0,3 cm và 2,7x0,3 cm lành tốt phù hợp do vật sắc, nhọn gây ra.

+ 01 vết sẹo đốt gần ngón V mu bàn tay trái, kích thước 2x0,1 cm lành tốt không có cơ sở y học trả lời thương tích do vật gì gây ra.

+ 01 vết sẹo đốt xa ngón V gan bàn tay trái, kích thước 1,5x0,1 cm lành tốt không có cơ sở y học trả lời thương tích do vật gì gây ra.

+ 01 mô ngón I mặt gan bàn tay trái, kích thước dài 1cm ngang từ 0,2 đến 0,4 cm lành tốt không có cơ sở y học trả lời thương tích do vật gì gây ra.

+ 02 vết sẹo 1/3 trên ngoài cẳng chân phải từ trên xuống, kích thước 1,8x0,2 cm và 0,8x0,1 cm lành tốt không có cơ sở y học trả lời thương tích do vật gì gây ra.

* Kết luận giám định số 4650/C09B ngày 16/10/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận: Không có dấu vết máu trên con dao và phần lưỡi dao bị gãy hai đầu. Dấu vết màu nâu đỏ trên mảnh nhựa màu xám, nón bảo hiểm, cục đá xanh và máu thu tại vị trí số 9 là máu người, phân tích được cùng một kiểu gen nữ giới hoàn chỉnh từ các dấu vết máu này.

* Đối với người tên Â, Qu và những người khác bạn của Th cùng đi đến chùa Gò Kén gây thương tích cho Bùi Thị Tường V có dấu hiệu đồng phạm về tội “Cố ý gây thương tích”. Tuy nhiên, qua điều tra chưa xác định được lai lịch, nhân thân, địa chỉ nên chưa làm việc được, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã H sẽ tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau.

* Đối với Nguyễn Thị Anh Th (H k), sau khi gây án đã bỏ trốn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã H đã khởi tố bị can, ra Quyết định truy nã nhưng đến nay chưa bắt được nên đã tách vụ án đối với bị can Nguyễn Thị Anh Th và tạm đình chỉ theo quy định.

* Đối với Phan Tuấn Th dùng súng bắn làm Nh bị thương, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã H đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội “Giết người”, chuyển toàn bộ hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh T thụ lý theo thẩm quyền.

* Về trách nhiệm dân sự: Gia đình Th, Nh đã bồi thường cho bị hại Bùi Thị Tường V số tiền 200.000.000 đồng nên bị hại đã có đơn xin bãi nại và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Qua xác minh, các bị cáo không có tài sản nên không tiến hành kê biên.

Quá trình điều tra, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Bản Cáo trạng số: 105/CT-VKSHT ngày 25 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã H đã truy tố các bị cáo Trần Thị Kim Th và Tiêu Minh Nh về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã H giữ quyền công tố, trong phần tranh luận đã giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Trần Thị Kim Th và Tiêu Minh Nh về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Trần Thị Kim Th và Tiêu Minh Nh phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

* Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Thị Kim Th từ 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù đến 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù.

* Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Tiêu Minh Nh từ 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù đến 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù.

* Căn cứ Điều 47 và Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo Trần Thị Kim Th và Tiêu Minh Nh trình bày lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo được sớm trở về với gia đình và hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị hại là chị Bùi Thị Tường V; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị Mỹ Ph, Nguyễn Thị Mỹ H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đối với chị V, chị Ph và chị H là đúng với quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi của các bị cáo thể hiện: Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà cơ quan điều tra đã thu thập được, cũng như lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra có cơ sở xác định:

Vào lúc 01 giờ, ngày 05/9/2020, tại khu vực chùa Gò Kén thuộc khu phố L, phường Long Thành Tr, thị xã H, tỉnh T, Trần Thị Kim Th và Tiêu Minh Nh cùng đồng phạm chỉ vì mâu thuẫn nhỏ đã cùng một số đối tượng hiện chưa xác định được nhân thân, lý lịch dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích làm tổn thương cơ thể cho chị Bùi Thị Tường V 32%. Do đó, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”. Viện Kiểm sát nhân dân thị xã H đã truy tố các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bản thân các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, các bị cáo ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện thái độ xem thường pháp luật. Do đó cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[5] Khi quyết định hình phạt có xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình các bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại; bị hại làm đơn không yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: không có.

Trong vụ án này, vai trò của các bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội là khác nhau nên mỗi bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự khác nhau. Bị cáo Th là người rủ rê, lôi kéo bị cáo Nh thực hiện tội phạm nên bị cáo Th phải chịu mức án cao hơn mức án của bị cáo Nh.

Xét thấy, bị cáo Th và bị cáo Nh có nơi cư trú rõ ràng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi, đã bồi thường một phần khắc phục hậu quả nên Hội đồng xét xử thấy cần thiết áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xét xử các bị cáo một mức án thấp hơn mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ thời gian giáo dục các bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Do đó, mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh T đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là có căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Chị V đã nhận số tiền 200.000.000 đồng và không yêu cầu các bị cáo bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử ghi nhận. [7] Về xử lý vật chứng:

[7.1] Đối với 01 (Một) xe mô tô biển số 70F7-xxxx, nhãn hiệu: YAMAHA, màu hồng là tài sản của chị Nguyễn Thị Mỹ Ph, không liên quan đến việc phạm tội nên hoàn trả lại cho chị Ph.

[7.2] Đối với 01 (Một) xe môtô biển số 54R5-xxxx, nhãn hiệu: HONDA, màu đỏ-đen là tài sản của chị Nguyễn Thị Mỹ H, không liên quan đến việc phạm tội nên hoàn trả lại cho chị H.

[7.3] Đối với những tài sản do các bị cáo sử dụng cho việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy bao gồm:

- 01 (Một) đoạn lưỡi dao bằng kim loại màu trắng bị gãy hai đầu, mặt lưỡi dao có chữ “BATON” kích thước đoạn lưỡi dao là (11,5x02)cm;

- 01 (Một) cây dao có cán và lưỡi bằng kim loại màu trắng, cán dao dài 14,5cm, đường kính 02cm, giữa cán có ốp nhựa màu đen, lưỡi dao bị gãy mất một đoạn, phần lưỡi còn lại dài 7,5cm, rộng 02cm;

- 01 (Một) cục đá xanh kích thước (6x9x9,5)cm, trên có vết màu nâu đỏ;

- 01 (Một) mãnh vỡ nhựa không rõ hình, màu xám, kích thước (16x8)cm, mặt ngoài có dính vết màu nâu đỏ;

- 01 (Một) mũ bảo hiểm màu xám, trên đỉnh mũ có vết vỡ mất nhựa không rõ hình kích thước (12x8)cm;

- 01 (Một) chiếc dép quai kẹp màu đen bàn chân trái;

- 01 (Một) chiếc dép quai kẹp màu đen bàn chân trái, mặt quai dép có hoa văn màu vàng - xám;

- 01 (Một) chiếc dép quai ngang bàn chân trái;

- 01 (Một) mũ lưỡi trai bằng vải màu đen, mặt trước mũ có chữ “POLO”;

- 01 (Một) chiếc dép chân phải, loại dép quai kẹp màu đen, trên quai có hoa văn màu vàng - xám;

- 01 (Một) cán gỗ màu vàng (loại cán dao) kích thước (17x4x2,5)cm, cán có vân gỗ dọc tối màu;

- 01 (Một) cục đá xanh kích thước (12x4)cm;

- 01 (Một) cục đá xanh kích thước (7x8)cm;

- 01 (Một) cục đá xanh kích thước (12x10)cm;

- 01 (Một) cục đá xanh kích thước (19x10)cm;

- 01 (Một) đôi dép quai ngang màu đen, mặt quai có hoa văn trắng - đen;

- 01 (Một) áo vải dài tay màu đen có sọc màu trắng - xám mặt trong áo có chữ “MR KEN”;

- 01 (Một) ống tuýp bên trong có lưỡi dao;

- 01 (Một) búa tự chế cán bằng kim loại, lưỡi hình bán nguyệt bằng kim loại;

- 01 (Một) búa tự chế cán bằng gỗ, lưỡi hình bán nguyệt bằng kim loại;

- 01 (Một) cây dao tự chế dài 68cm, lưỡi bằng kim loại màu đen dài 34cm, rộng 6,5cm, phần cán gỗ dài 34cm;

[7.4] Đối với 01 (Một) xe môtô biển số 70D1-xxxxx, nhãn hiệu:

SUZUKI, màu đen, đã qua sử dụng; 01 (Một) xe môtô biển số 70B1- xxxxx, nhãn hiệu: YAMAHA, màu đỏ-đen, đã qua sử dụng và 01 (Một) xe môtô biển số 70C1-xxxxx, nhãn hiệu: YAMAHA, màu đỏ-đen, đã qua sử dụng hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã H, tỉnh T đang thông báo truy tìm chủ sở hữu để điều tra xử lý theo thẩm quyền nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[8] Đối với Phan Tuấn Th dùng súng bắn làm Nh bị thương, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã H đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội “Giết người”, chuyển toàn bộ hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh T thụ lý theo thẩm quyền nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[9] Đối với Nguyễn Thị Anh Th (H k), sau khi gây án đã bỏ trốn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã H đã khởi tố bị can, ra Quyết định truy nã nhưng đến nay chưa bắt được nên đã tách vụ án đối với bị can Nguyễn Thị Anh Th và tạm đình chỉ theo quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[10] Đối với người tên Â, Qu và những người khác bạn của Thư cùng đi đến chùa Gò Kén gây thương tích cho Bùi Thị Tường V có dấu hiệu đồng phạm về tội “Cố ý gây thương tích”. Tuy nhiên, qua điều tra chưa xác định được lai lịch, nhân thân, địa chỉ nên chưa làm việc được, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã H sẽ tiếp tục điều tra, làm rõ xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[11] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Trần Thị Kim Th, Tiêu Minh Nh phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

* Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Kim Th 03 (Ba) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 02/4/2021.

* Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Tiêu Minh Nh 03 (Ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 26/5/2021.

2. Về bồi thường thiệt hại: Ghi nhận chị Bùi Thị Tường V đã nhận tiền bồi thường xong và không yêu cầu gì thêm.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 và Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

3.1. Hoàn trả lại cho chị Nguyễn Thị Mỹ Phg 01 (Một) xe mô tô biển số 70F7-xxxx, nhãn hiệu: YAMAHA, màu hồng, số khung: RLCM4D1107Y012427, (số khung không bị đục sửa, số máy bị đục xoá không xác định được số nguyên thuỷ), đã qua sử dụng.

3.2. Hoàn trả lại cho chị Nguyễn Thị Mỹ H 01 (Một) xe môtô biển số 54R5-xxxx, nhãn hiệu: HONDA, màu đỏ-đen, số máy: HC12E - 2675991, số khung: RLHHC1203AY176010 (số khung, số máy không bị đục sửa), đã qua sử dụng.

3.3. Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (Một) đoạn lưỡi dao bằng kim loại màu trắng bị gãy hai đầu, mặt lưỡi dao có chữ “BATON” kích thước đoạn lưỡi dao là (11,5x02)cm;

- 01 (Một) cây dao có cán và lưỡi bằng kim loại màu trắng, cán dao dài 14,5cm, đường kính 02cm, giữa cán có ốp nhựa màu đen, lưỡi dao bị gãy mất một đoạn, phần lưỡi còn lại dài 7,5cm, rộng 02cm;

- 01 (Một) cục đá xanh kích thước (6x9x9,5)cm, trên có vết màu nâu đỏ;

- 01 (Một) mãnh vỡ nhựa không rõ hình, màu xám, kích thước (16x8)cm, mặt ngoài có dính vết màu nâu đỏ;

- 01 (Một) mũ bảo hiểm màu xám, trên đỉnh mũ có vết vỡ mất nhựa không rõ hình kích thước (12x8)cm;

- 01 (Một) chiếc dép quai kẹp màu đen bàn chân trái;

- 01 (Một) chiếc dép quai kẹp màu đen bàn chân trái, mặt quai dép có hoa văn màu vàng - xám;

- 01 (Một) chiếc dép quai ngang bàn chân trái;

- 01 (Một) mũ lưỡi trai bằng vải màu đen, mặt trước mũ có chữ “POLO”;

- 01 (Một) chiếc dép chân phải, loại dép quai kẹp màu đen, trên quai có hoa văn màu vàng - xám;

- 01 (Một) cán gỗ màu vàng (loại cán dao) kích thước (17x4x2,5)cm, cán có vân gỗ dọc tối màu;

- 01 (Một) cục đá xanh kích thước (12x4)cm;

- 01 (Một) cục đá xanh kích thước (7x8)cm;

- 01 (Một) cục đá xanh kích thước (12x10)cm;

- 01 (Một) cục đá xanh kích thước (19x10)cm;

- 01 (Một) đôi dép quai ngang màu đen, mặt quai có hoa văn trắng - đen;

- 01 (Một) áo vải dài tay màu đen có sọc màu trắng - xám mặt trong áo có chữ “MR KEN”;

- 01 (Một) ống tuýp bên trong có lưỡi dao;

- 01 (Một) búa tự chế cán bằng kim loại, lưỡi hình bán nguyệt bằng kim loại;

- 01 (Một) búa tự chế cán bằng gỗ, lưỡi hình bán nguyệt bằng kim loại;

- 01 (Một) cây dao tự chế dài 68cm, lưỡi bằng kim loại màu đen dài 34cm, rộng 6,5cm, phần cán gỗ dài 34cm;

3.4. Đối với 01 (Một) xe môtô biển số 70D1-xxxxx, nhãn hiệu: SUZUKI, màu đen, số máy: CGA1-529496, số khung: RLSDL11ANKV129536 (số khung, số máy không bị đục sửa), đã qua sử dụng; 01 (Một) xe môtô biển số 70B1-xxxxx, nhãn hiệu: YAMAHA, màu đỏ-đen, số máy, số khung bị đục xóa không xác định được số nguyên thủy, đã qua sử dụng và 01 (Một) xe môtô biển số 70C1-xxxxx, nhãn hiệu:

YAMAHA, màu đỏ-đen, số máy: 5C64-460348, số khung:

RLCS5C640BY460343 (số khung, số máy không bị đục sửa), đã qua sử dụng hiện chưa xác định được chủ sở hữu nên giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã H, tỉnh T xử lý theo thẩm quyền.

(Tất cả các tài sản nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thị xã H, tỉnh T đang tạm giữ).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Th và Nh mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho các bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh T trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng những người vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 106/2021/HS-ST

Số hiệu:106/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoà Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về