Bản án về tội cố ý gây thương tích số 10/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮK, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 10/2022/HS-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 22 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2022/TLST- HS, ngày 27 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đoàn Công H, sinh năm: 1995. Nơi cư trú: Thôn 5, xã T, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Nghề nghiệp: Làm nông. Trình độ văn hóa: 8/12. Con ông Đoàn Công C, sinh năm 1966 và con bà Trần Thị S, sinh năm 1973. Gia đình bị cáo có 03 chị, em ruột. Bị cáo là con thứ hai. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (Có mặt).

Những người tham gia tố tụng khác:

- Người bị hại: Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1987. Địa chỉ: Thôn 5, xã T, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Trần Thị S, sinh năm 1973.

Địa chỉ: Thôn 5, xã T, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. (Có mặt).

- Người làm chứng:

+ Bà Trần Thị Thu Th, sinh năm: 1988. (Có mặt).

+ Ông Lê Đình Nh, sinh năm: 1960 (Vắng mặt). Cùng địa chỉ: Thôn 5, xã T, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 30/12/2021, sau khi uống rượu Đoàn Công H điều khiển xe mô tô biển số 47M1 – 325.13 đến quán bi da của ông Lê Đình Nh, sinh năm 1960 ở cùng thôn chơi. Đến nơi, H gặp anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1987 cư trú tại thôn 5, xã T, huyện K, tỉnh Đắk Lắk cũng đang chơi bi da tại đây. Lúc này, H rủ anh Th chơi bi da cùng mình nhưng anh Th không đồng ý nên hai bên xảy ra cãi nhau dẫn đến xô xát. Thấy vậy, ông Nh và mọi người đến can ngăn, H điều khiển xe mô tô đi ra ngoài đường cách quán bi da khoảng 200m ngồi còn anh Th đi về nhà. Do vẫn bực tức chuyện xô xát, đánh nhau với anh Th nên H tiếp tục điều khiển xe mô tô đến nhà anh Th nói chuyện. Đến nơi, H dựng xe trước cổng gọi anh Th ra nhưng anh Th không ra nên H nhặt hai viên gạch (loại gạch 04 lỗ) ném một viên trúng vào tường nhà anh Th còn 01 viên cầm trên tay rồi đi vào trong sân. Lúc này, anh Th cầm theo một cây tre dài 2,19 m từ trong nhà chạy về phía H giơ lên thì H ném viên gạch còn lại, anh Th quay người bỏ chạy, viên gạch trúng vào phía sau đầu làm anh Th ngã xuống sân. Thấy vậy, H đã gọi điện cho gia đình đến cùng đưa anh Th đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện đa khoa vùng Tây Nguyên.

Tại Bản kết luận giám định pháp y thương tích số: 161/TgT-TTPY, ngày 17/02/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận đối với thương tích của anh Nguyễn Văn Th như sau:

- Vết thương để lại sẹo hơi chéo vùng chẩm phải trên ụ chẩm 1,5cm, đầu trong sát đường giữa, bờ gọn, không dính da xung quanh sẹo, kích thước 3,5 cm x 0,3cm:

2%; Nứt sọ chẩm phải: 13%; Tụ máu ngoài màng cứng ít vùng tiểu não bên phải không còn hình ảnh trên phim chụp CT Scanner sọ não: 5%.

Tỉ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 19%.

Vật tác động: Vật tày cứng, có cạnh là 01 viên gạch (loại gạch 4 lỗ) kích thước 16,7cm x 07cm x 07cm.

Tại bản Cáo trạng số 10/CT-VKS-HS ngày 27/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Đoàn Công H về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a, i khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Đoàn Công H thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk đã công bố, cũng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và không có ý kiến gì khác.

Phần tranh luận: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc trình bày quan điểm luận tội đối với bị cáo Đoàn Công H, sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng số 10/CT-VKS-HS ngày 27/5/2022 và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Đoàn Công H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ điểm a, i khoản 1; điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Đoàn Công H từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

* Các biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 48 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 587 và Điều 590 của Bộ luật dân sự.

- Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại anh Nguyễn Văn Th tổng số tiền 26.133.753 đồng.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 viên gạch (loại gạch 4 lỗ), bị vỡ một góc, kích thước 16,7cm x 07cm x 07cm và 01 viên gạch (loại gạch 4 lỗ), còn nguyên, kích thước 16,7cm x 07cm x 07cm; 01 cây tre có kích thước 04cm x 219cm (Có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/6/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pắc và Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc).

Tại phiên toà bị cáo Đoàn Công H không tranh luận gì chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại anh Nguyễn Văn Th không có ý kiến tranh luận gì và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Về phần trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị hại anh Nguyễn Văn Th yêu cầu bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường với tổng số tiền 76.900.000 đồng. Tại phiên tòa bị hại vẫn giữ nguyên yêu cầu buộc bị cáo bồi thường với số tiền 76.900.000 đồng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị S không có ý kiến tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về thủ tục tố tụng: Các quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Pắc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được lưu trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Khoảng 21 giờ ngày 30/12/2021, tại nhà anh Nguyễn Văn Th ở thôn 5, xã T, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo Đoàn Công H đã dùng 01 viên gạch (loại gạch 4 lỗ) kích thước 16,7cm x 07cm x 07cm ném trúng vào vùng đầu anh Nguyễn Văn Th gây thương tích với tỉ lệ thương tích 19%. Tội phạm và hình phạt được quy định theo điểm a, i khoản 1 và điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Tại điểm a, i khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS quy định:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) …dùng hung khí nguy hiểm ……;

i) Có tính chất côn đồ 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này” Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo Đoàn Công H là nguy hiểm và gây tác hại xấu về nhiều mặt cho xã hội, trực tiếp xâm hại trái pháp luật đến sức kho của người bị hại, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo phạm tội với tình tiết định khung là dùng hung khí nguy hiểm và có tính chất côn đồ được quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự và bị cáo gây thương tích cho anh Nguyễn Văn Th với t lệ thương tật 19% sức khỏe nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Vận dụng điều luật nêu trên, đối chiếu với hành vi phạm tội của bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy cần cách lý bị cáo ra khỏi đời sống xã hội thời gian nhất định và áp dụng mức hình phạt sao cho thỏa đáng để vừa đề cao được tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời giáo dục riêng, răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình. Sau khi phạm tội, bị cáo đã tác động gia đình để bồi thường số tiền 6.000.000 đồng cho người bị hại. Tại phiên tòa, bị cáo được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ nêu trên, để giảm cho bị cáo một phần hình phạt, nhằm thể hiện chính sách khoan hồng nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

[4] Các biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 48 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 587 và Điều 590 của Bộ luật dân sự.

- Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị hại anh Nguyễn Văn Th đã kê khai và yêu cầu bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ các khoản tiền chi phí điều trị, các khoản chi phí hợp lý khác và tiền bù đắp tổn thất tinh thần với tổng số tiền: 76.900.000 đồng.

Hội đồng xét xử xét thấy: Có những khoản bị hại kê khai để yêu cầu bị cáo bồi thường là hợp lý và có một số khoản kê khai không đúng theo luật định như: Tiền chi phí điều trị tại bệnh viện đa khoa vùng Tây nguyên 8.000.000 đồng nhưng chỉ có hóa đơn viện phí 2.148.753đồng, biên lai tạm ứng một phần viện phí 585.000 đồng; hóa đơn khám bệnh 700.000 đồng. Tiền ăn người bị hại và người chăm sóc trong thời gian điều trị ở bệnh viện 2.100.000 đồng. Tiền bù đắp tổn thất tinh thần 50.000.000 đồng.

Do vậy, căn cứ theo quy định của pháp luật buộc bị cáo Đoàn Công H phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại ông Nguyễn Văn Th các khoản chi phí hợp lý sau:

- Tiền xe đi và về (huyện K - Bệnh viện Đa khoa vùng Tây Nguyên): 02 lượt x 1.000.000 đồng = 2.000.000 đồng, mặc dù không có hóa đơn nhưng đây là khoản tiền thực tế đưa người bị hại đi cấp cứu phù hợp nên cần chấp nhận.

- Tiền viện phí, tiền thuốc là chi phí thực tế có hóa đơn: Tiền viện phí 2.148.753 đồng, biên lai tạm ứng một phần viện phí 585.000 đồng; hóa đơn khám bệnh 700.000. Tổng cộng 3.433.753 đồng.

- Tiền thu nhập thực tế bị mất của người bị hại và người chăm sóc từ ngày 31/12/2021 đến ngày 06/01/2022 (07 ngày) x 200.000 đồng/ngày/02 người (Mức thu nhập trung bình của lao động tại địa phương) = 2.800.000 đồng.

- Tiền bồi dưỡng sức khỏe: 6.000.000 đồng.

- Tiền tổn thất tinh thần: 10 tháng lương tối thiểu x 1.490.000 đồng = 14.900.000 đồng.

Tổng cộng: 29.133.753 đồng.

Vì vậy, buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại anh Nguyễn Văn Th tổng số tiền 29.133.753 đồng. Được khấu trừ số tiền 6.000.000 đồng mà bị cáo đã bồi thường trước. Bị cáo Đoàn Công H phải tiếp tục bồi thường anh Nguyễn Văn Th số tiền 23.133.753 đồng là phù hợp.

- Về xử lý vật chứng: 01 viên gạch (loại gạch 4 lỗ), bị vỡ một góc, kích thước 16,7cm x 07cm x 07cm và 01 viên gạch (loại gạch 4 lỗ), còn nguyên, kích thước 16,7cm x 07cm x 07cm; 01 cây tre có kích thước 04cm x 219cm (Có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/6/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pắc và Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc). HĐXX xét thấy vật chứng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp.

- Đối với xe mô tô biển số 47M1 – 325.13, bị can Đoàn Công H điều khiển đến nhà anh Th. Quá trình điều tra xác định xe mô trên là của bà Trần Thị S (mẹ bị cáo H). Bà S không biết H sử dụng xe mô tô trên làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với bà S và xe mô tô là phù hợp.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016, ngày 30/12/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo Đoàn Công H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.156.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Công H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2/ Điều luật và mức hình phạt:

- Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đoàn Công H 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3/ Các biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 48 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 587 và Điều 590 của Bộ luật dân sự:

- Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại anh Nguyễn Văn Th tổng số tiền 29.133.753 đồng, được khấu trừ số tiền 6.000.000 đồng mà bị cáo đã bồi thường trước. Bị cáo Đoàn Công H phải tiếp tục bồi thường anh Nguyễn Văn Th số tiền 23.133.753. đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 viên gạch (loại gạch 4 lỗ), bị vỡ một góc, kích thước 16,7cm x 07cm x 07cm và 01 viên gạch (loại gạch 4 lỗ), còn nguyên, kích thước 16,7cm x 07cm x 07cm; 01 cây tre có kích thước 04cm x 219cm (Có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/6/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Pắc và Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc).

4/ Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016, ngày 30/12/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Đoàn Công H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.156.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5/ Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 10/2022/HS-ST

Số hiệu:10/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về