Bản án về tội cố ý gây thương tích số 100/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 100/2021/HS-PT NGÀY 09/12/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 09 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bình Thuận, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 107/2021/TLPT-HS ngày 04 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo Đỗ Văn Th do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 119/2021/HS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TP.

- Bị cáo có kháng cáo:

Đỗ Văn Th (Bờm), sinh năm 2000, nơi sinh tại tỉnh Bình Thuận; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố M1, thị trấn Ph, huyện TP, tình Bình Thuận; chỗ ở: Khu phố M4, thị trấn Ph, huyện TP, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ văn hóa (học vấn): 4/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đô Văn H và bà Huỳnh Thị N; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Không. Bị cáo bị bắt từ ngày 13/7/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện TP (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do mâu thuẫn xoay quanh việc mua bán đất giữa gia đình ông Nguyễn Văn Tr với gia đình của bị cáo Đỗ Văn Th. Khoảng 16 giờ ngày 24/3/2021, sau khi đã ung rượu say, bị cáo Th cho rằng ông Tr còn nợ tiền mua đất của gia đình nhưng gọi điện thoại cho ông Tr không bắt máy nên nảy sinh ý định đi tìm ông Tr để hỏi chuyện nếu không giải quyết được sẽ đánh ông Tr cho bỏ tức. Cùng lúc, có H1 người ở thị trấn Ph (không rõ lai lịch) đi đến nhà bị cáo Th để mượn xe mô tô nên bị cáo Th lấy 01 cây kiếm dài khoảng 60cm, có cán và vỏ nhựa màu đen, lưỡi bằng kim loại màu trắng, mặt lưỡi rộng 04cm được đặt mua trên mạng, giấu trong áo khoác ngoài rồi điều khiến xe mô tô chở H1 cùng đi đến quán cà phê cóc nằm trên đường Thống Nhất, thị trấn Ph, tìm ông Tr để nói chuyện. Khi đến quán cà phê cóc thấy ông Tr đang ngồi trong quán, bị cáo Th một mình cầm cây kiếm đi vào rượt chém ông Tr nhưng không chém trúng, ông Tr chạy thoát được, bị cáo Th quay lại lấy xe mô tô chở H1 chạy về nhà bị cáo Th tại khu phố M4, thị trấn Ph để cho H1 mượn xe mô tô. Sau khi bỏ chạy, ông Tr một mình điều khiển xe mô tô chạy về hướng nhà của bị cáo Th để tìm cha mẹ bị cáo Th nói chuyện, trên đường đi ngang qua bờ kề biển thuộc khu phố M3, thị trấn Ph, huyện TP thì thấy bị cáo Th điều khiển xe chở H1 ngồi sau chạy hướng ngược lại nên cả hai bên dừng xe lại. Ông Tr nói: “Em làm vậy là bậy rồi Bờm”, bị cáo Th nói lại: “lỡ bậy bậy luôn”, đồng thời bị cáo Th rút cây kiếm trước đó giấu trong người ra rượt chém ông Tr. Ông Tr quay lưng bỏ chạy được một đoạn thì té ngã xuống nền đường, bị cáo Th chạy tới áp sát, tư thế đứng tay phải cầm cây kiếm chém từ trên xuống dưới vào người ông Tr, ông Tr tư thế ngồi mông chạm đất, quay mặt về phía bị cáo Th, ông Tr đưa tay trái lên che đỡ vùng mặt thì lưỡi kiếm chém trúng vào cùi chỏ tay trái gây chảy máu. Sau đó, ông Tr bung đứng dậy tiếp tục bỏ chạy, nhảy qua bờ kề vào bãi biển cách vị trí té ngã ban đầu khoảng 20m thì do cát lún nên bị té ngã, bị cáo Th đuổi theo tiếp tục dùng cây kiếm chém vào người ông Tr đang té ngã, ông Tr đưa tay phải lên chống đỡ làm lưỡi kiếm chém trúng vào cẳng tay phải chảy máu, bị cáo Th tiếp tục chém thêm nhiều nhát vào người ông Tr trúng chân, vai gây xây xước chảy máu thì người dân gần đó truy hô nên bị cáo Th đi đến xe mô tô điều khiển chở H1 bỏ chạy về nhà của bị cáo Th, ông Tr được lực lượng Công an thị trấn Ph đưa đi cấp cứu.

Căn cứ bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 178/2021/TgT ngày 27/5/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Thuận, kết luận tổn thương cơ thổ của Nguyễn Văn Tr:

- Vết thương - chấn thương mặt sau trong khủyu tay trái, gãy mỏm vẹt, đứt thần kinh trụ, đứt cơ gấp đã được phẫu thuật điều trị hiện ngón V bàn tay trái hạn chế cử động gấp ngón, ngón IV - V bàn tay trái hạn chế cử động dạng - khép ngón, cal xương chưa ổn định, để lại vết thương trùng vết mổ dài 12cm, còn 10 mũi chỉ. Tỷ l tổn thương cơ thể là: 15% + 6% + 2%.

- Vết thương 1/3 dưới mặt sau cẳng tay phải, đã được điều trị để lại sẹo lành, kích thước (7 x 0,2)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 2%.

- Gãy 1/3 dưới xương trụ cẳng tay phải trùng với vết thương nhưng không có trong giấy chứng nhận thương tích nên không tính tỷ lệ tổn thương cơ thể.

Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 23% (hai ba phần trăm).

Các vết thương do vật sắc gây ra.

Các vết thương có chiều hướng tác động theo tư thế cơ năng của cơ thể với vật gây thương.

Trong quá trình Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TP thụ lý, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, Nguyễn Văn Tr tiếp tục nhập viện để điều trị vết thương gãy xương cẳng tay phải.

Căn cứ bản kết luận giám định pháp y về thương tích bổ sung số 219/2021/TgT ngày 14/6/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Thuận, kết luận tn thương cơ thể của Nguyễn Văn Tr:

- Vết thương, chấn thương 1/3 dưới mặt sau cẳng tay phải, gãy 1/3 dưới xương trụ cẳng tay phải đã được phẫu thuật, hiện để lại vết mổ dài 6,5cm, khâu 6 mũi chỉ. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 10% + 2%.

Tổng tỷ lệ thương tích trên là: 12%.

Tổng hợp tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Nguyễn Văn Tr đối với vết thương giám định bổ sung và các vết thương có tỷ lệ tổn thương theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 178/2021/TgT ngày 27/5/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Thuận là: 15% + 6% + 2% + 2% + 10% + 2% = 32,32%. Làm tròn số 32% (ba hai phần trăm).

Vết thương - chấn thương do vật sắc tạo ra.

Vết thương - chấn thương có chiều hướng tác động theo tư thế cơ năng của cơ thể với vật gây thương.

Vết thương 1/3 dưới mặt sau cẳng tay phải, đã được điều trị hiện để lại sẹo lành, kích thước (7 x 0,2)cm với vết thương gãy 1/3 dưới xương trụ cẳng tay phải trùng với vết thương cơ thể do một lần chém tạo ra.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm s 119/2021/HS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TP đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn Th phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm C khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 134; điểm e khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn Th 07 (bảy) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 13 tháng 7 năm 2021.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên các quyết định khác về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo cho những người tham gia tố tụng biết.

Ngày 28 tháng 9 năm 2021, bị cáo Đỗ Văn Th kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận phát biểu quan điểm:

Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Ý kiến của bị cáo: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 16 giờ ngày 24/3/2021, xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ nhặt do bị cáo Đỗ Văn Th cho rng bị hại ông Nguyễn Văn Tr còn nợ tiền mua đất của gia đình nên bị cáo Th lấy 01 cây kiếm dài khoảng 60cm, có cán và vỏ nhựa màu đen, lưỡi bằng kim loại màu trng, mặt lưỡi rộng 04cm là hung khí nguy hiểm đi tìm ông Tr. Khi thấy ông Tr ở bờ kề biển thuộc khu phố M3, thị trấn Ph, huyện TP, bị cáo Th dùng cây kiếm chém trúng vào cùi chỏ tay trái ông Tr, ông Tr bỏ chạy thì bị cáo đuổi theo tiếp tục dùng cây kiếm chém trúng cẳng tay phải của ông Tr khiến ông Tr bị thương tích với tổng hợp tỷ lệ tổn thương cơ thể là 32%.

Với hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của ông Tr với tỷ lệ tổn thương cơ thể 32% thuộc trường hợp “Dùng hung khí nguy hiểm” và “Có tính chất côn đồ” quy định tại điểm a, i khoản 1, Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Th về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ và đứng pháp luật.

[2] Về hình phạt, sau khi cân nhắc tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo mức hình phạt 07 năm tù là phù hợp.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không trình bày thêm được một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới so với những tình tiết mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không thể chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo được mà nghĩ nên xử giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

[4] Do Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm nên bị cáo Th phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án không có kháng cáo, và không bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn Th (Bờm). Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 119/2021/HS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện TP.

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Văn Th (Bờm) phạm tội “Cố ý gây thương tích”;

Căn cứ vào: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm e khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Văn Th (Bờm) 07 (bảy) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 13 tháng 7 năm 2021.

Căn cứ vào: Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đỗ Văn Th phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (09/12/2021).

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 100/2021/HS-PT

Số hiệu:100/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về