Bản án về tội cố ý gây thương tích số 04/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH CAM RANH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 04/2024/HS-ST NGÀY 12/01/2024 VỀ TỘI CÝ GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 12 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 113/2023/TLST-HS ngày 24/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2023/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2023; Thông báo hoãn phiên tòa số 53/2023/TB-TA ngày 13 tháng 12 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trịnh Thanh T, giới tính: Nam, sinh ngày 27/6/2003 tại Khánh Hòa; nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố X, phường C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 11/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Cồng giáo; cha: Trịnh Tiến T1 và mẹ: Bùi Thị P; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

2. Họ và tên: Kiều Ngọc T2, giới tính: N, sinh năm 2000 tại Ninh Thuận; nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố N, phường C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Công giáo; cha: Kiều Văn P1 và mẹ: Hoàng Thị Mai T3; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

3. Họ và tên: Phạm Minh H, giới tính: Nam, sinh ngày 09/5/2002 tại Khánh Hòa; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố X, phường C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 10/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Công giáo; cha: Phạm Đức HI và mẹ: Nguyễn Thị Ngọc H2; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại. Có mặt.

* Bị hại:

Anh Huỳnh Thanh P2, sinh ngày 02/12/2006, địa chỉ: Tổ dân phố T, phường C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp: Bà Lâm Thị S, sinh năm 1981, địa chỉ: Tổ dân phố T, phường C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Huỳnh Nhật T4, sinh ngày 04/11/2005; địa chỉ: Tổ dân phố T, phường C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Anh Lê Văn C, sinh ngày 22/12/2005; địa chỉ: Tổ dân phố T, phường C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

3. Anh Trần Quốc T5, sinh ngày 01/02/2006; địa chỉ: Tổ dân phố P, phường C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp: Ông Trần Đình T6, sinh năm 1980, địa chỉ: Tổ dân phố P, phường C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trịnh Thanh T và Huỳnh Nhật T4 có mâu thuẫn với nhau trong chuyện tình cảm với Nguyễn Thị Như Q (là người yêu của T). T cho rằng T4 biết Q là người yêu của mình nhưng vẫn tán tỉnh, trêu chọc Q.

Khoảng 13 giờ ngày 07/12/2021, T hẹn T4 đến phía sau Trung tâm G thuộc tổ dân phố L, phường C, thành phố C để đánh nhau. T4 đồng ý. T4 rủ Lê Văn C, Trần Quốc T5, Huỳnh Thanh P2 (sinh ngày 02/12/2006) đi đánh nhóm T. Còn T rủ Phạm Minh H, Kiều Ngọc T2 đi đánh nhóm T4. H, T2 đồng ý. T điều khiển xe đi một mình, còn H điều khiển xe chở T2. Khi đi H cầm theo 01 con dao đề trong cốp xe và nói với T2 lấy ra sử dụng đế đánh lại nhóm T4 khi bị đánh.

Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, khi đến khu vực phía sau Trung tâm G; T, H, T2 gặp T4, C, T5, P2. Tại đây, T dùng tay, chân đánh T4 ngã nên P2, C, T5 dùng tay, chân đánh T nên T nói với H vào đánh lại nhóm T4 để giải vây cho mình. Thấy vậy, H lao vào xô đẩy nhóm T4, kéo T ra thì bị nhóm T4 dùng tay, chân đánh H, T. Lúc này, T2 lấy dao trong cốp xe ra đi đến chém trúng cổ tay trái và bàn tay phải của P2 gây thương tích.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 11/TgT-TTPY ngày 10/01/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh K kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vùng cẳng tay trái có một vết thương kích thước trung bình. Tỷ lệ thương tật: 02%.

- Vùng bàn tay phải ngón III có một vết thương kích thước nhỏ. Tỷ lệ thương tật: 01%.

- Vùng bàn tay phải ngón IV có một vết thương kích thước nhỏ. Tỷ lệ thương tật: 01%.

- Vùng bàn tay phải ngón V có một vết thương kích thước nhỏ. Tỷ lệ thương tật: 01%.

2. Tổng tỷ lệ % tổn thương cơ thể của Huỳnh Thanh P2 là: 05% Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích bổ sung số 385/TgT-TTPY ngày 09/9/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh K kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vùng cẳng tay trái có một vết thương kích thước trung bình. Tỷ lệ thương tật: 02%.

- Vùng bàn tay phải ngón III có một vết thương kích thước nhỏ. Tỷ lệ thương tật: 01%.

- Vùng bàn tay phải ngón IV có một vết thương kích thước nhỏ. Tỷ lệ thương tật: 01%.

- Vùng bàn tay phải ngón V có một vết thương kích thước nhỏ. Tỷ lệ thương tật: 01%.

2. Kết luận giám định bổ sung:

- Tổn thương bán phần thần kinh trụ cẳng tay trái. Tỷ lệ thương tật: 21%.

3. Tổng tỷ lệ % tổn thương cơ thể của Huỳnh Thanh P2 là: 25%.

Bản cáo trạng số 86/CT-VKSCR-HS ngày 20 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cam Ranh đã truy tố các bị cáo Trịnh Thanh T, Kiều Ngọc T2, Phạm Minh H về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 (dẫn chiếu điểm a, c, i khoản 1 Điều 134) Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cam Ranh giữ nguyên Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 (dẫn chiếu điểm a, c, i khoản 1 Điều 134); điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Trịnh Thanh T, Kiều Ngọc T2, Phạm Minh H; xử phạt bị cáo Trịnh Thanh T và Kiều Ngọc T2 mỗi bị cáo mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù giam, xử phạt bị cáo Phạm Minh H mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù giam.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận của các bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại, mỗi bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền 8.000.000 đồng.

Bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo và yêu cầu mỗi bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền là 8.000.000 đồng.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận, tại lời nói sau cùng các bị cáo Trịnh Thanh T, Kiều Ngọc T2, Phạm Minh H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo sớm về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo, bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Dó đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về sự vắng mặt của người làm chứng Huỳnh Nhật T4 tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[2] Về trách nhiệm hình sự:

[2.1] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện đúng như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa nên có cơ sở đề kết luận:

Khoảng 13 giờ ngày 07/12/2021, tại khu vực phía sau Trung tâm giáo dục thường xuyên và hướng nghiệp thành phố C ở tổ dân phố L, phường C, thành phố C; Trịnh Thanh T, Kiều Ngọc T2, Phạm Minh H có hành vi đánh Huỳnh Thanh P2, sinh ngày 02/12/2006 là người không có mâu thuẫn gì với các bị cáo, gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 25%. Trong đó, T2 là người dùng dao trực tiếp chém trúng tay P2 gây thương tích, T là người chủ mưu rủ rê, H là đồng phạm với vai trò là người giúp sức.

Vì vậy, các bị cáo Trịnh Thanh T, Kiều Ngọc T2, Phạm Minh H phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự (dẫn chiếu điểm a, c, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự). Cáo trạng của Viện kiểm sát và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa truy tố các bị cáo Trịnh Thanh T, Kiều Ngọc T2, Phạm Minh H theo đúng tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất nguy hiểm, mức độ hậu quả của hành vi và nhân thân các bị cáo thấy rằng: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân.

[2.2.1] Đối với bị cáo Trịnh Thanh T chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt mà bị cáo đã có hành vi rủ rê các bị cáo Kiều Ngọc T2, Phạm Minh H đi đánh nhau để giải quyết mâu thuẫn, dẫn tới việc bị cáo H chuẩn bị hung khí mang theo để bị cáo T2 trực tiếp chém gây thương tích cho bị hại, bị cáo là người chủ mưu, khởi xướng việc đánh nhau cho thấy bị cáo là đối tượng coi thường pháp luật nên cần phải có một mức án tương xứng đủ nghiêm khắc đề cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm răn đe, giáo dục bị cáo.

[2.2.2] Đối với bị cáo Kiều Ngọc T2 mặc dù không có mâu thuẫn gì với bị hại nhưng khi nghe bị cáo Phạm Minh H rủ đi đánh nhau và được bị cáo H thông báo có mang theo dao là hung khí nguy hiểm để khi có việc gì lấy ra sử dụng nhưng bị cáo đã không can ngăn hoặc từ chối mà lại hưởng ứng bằng cách đồng ý đi theo và là người trực tiếp chém gây thương tích cho bị hại. Do đó, cũng cần phải có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo ngang bằng với bị cáo Trịnh Thanh T, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian đề cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[2.2.3] Đối với bị cáo Phạm Minh H mặc dù cũng không có mâu thuẫn gì với bị hại nhưng khi nghe bị cáo Trịnh Thanh T rủ đi đánh nhau thì bị cáo đã đồng ý ngay mà không can ngăn, còn chuẩn bị hung khí và rủ bị cáo Kiều Ngọc T2 đi cùng, nên bị cáo phạm tội với vai trò là người giúp sức. Do đó, cũng cần phải có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhưng thấp hơn các bị cáo Trịnh Thanh T và Kiều Ngọc T2, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian đề cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[2.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[2.3.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo Trịnh Thanh T, Kiều Ngọc T2, Phạm Minh H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự [2.3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Trịnh Thanh T, Kiều Ngọc T2, Phạm Minh H đều khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo đều đã tự nguyện khắc phục hậu quả cho bị hại và được bị hại làm đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho tất cả các bị cáo, các bị cáo đều có nhân thân tốt. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm, phấn đấu cải tạo tốt.

[2.4] Xét thấy, các bị cáo phạm tội một cách nhất thời bồng bột và có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, có nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự đề quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo.

[3] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa các bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại tự nguyện thỏa thuận mỗi bị cáo phải tiếp tục bồi thường thêm cho bị hại 8.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trịnh Thanh T, Kiều Ngọc T2, Phạm Minh H phạm tội “Cố ý gây thương tích”;

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 (dẫn chiếu điểm a, c, i khoản 1 Điều 134); điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Trịnh Thanh T, Kiều Ngọc T2, Phạm Minh H;

X pht:

1. Bị cáo Trịnh Thanh T 01 (một) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

2. Bị cáo Kiều Ngọc T2 01 (một) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

3. Bị cáo Phạm Minh H 09 (chín) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

4. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 585 Bộ luật dân sự 2015: Ghi nhận sự thỏa thuận của các bị cáo Trịnh Thanh T, Kiều Ngọc T2, Phạm Minh H với bị hại. Buộc các bị cáo Trịnh Thanh T, Kiều Ngọc T2, Phạm Minh H mỗi bị cáo phải bồi thường thêm số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) cho bị hại Huỳnh Thanh P2.

5. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

Các bị cáo Trịnh Thanh T, Kiều Ngọc T2, Phạm Minh H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 04/2024/HS-ST

Số hiệu:04/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cam Ranh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về