TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 01/2024/HS-ST NGÀY 26/01/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong ngày 26 tháng 01 năm 2024, tại Tòa án nhân dân huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 28/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2023/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2023 đối với:
Bị cáo Nguyễn Thành L; Sinh ngày 18 tháng 10 năm 1991 tại huyện B, tỉnh Quảng Nam; Nơi cư trú: thôn D, xã T, huyện B, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: thợ hồ; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thành N và bà Trần Thị B; Có vợ là Hồ Thị V, sinh năm 1996 và có 02 con. Tiền án: không; Tiền sự: không; Nhân thân: không. Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Đỗ Thế T, sinh năm 1994. Địa chỉ: thôn P, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam (có mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Duy X, sinh năm 1971. Địa chỉ: thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Quảng Nam (có mặt).
- Người làm chứng:
+ Ông Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1998. Địa chỉ: thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Quảng Nam (có mặt).
+ Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1997. Địa chỉ: thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Quảng Nam (có mặt).
+ Ông Nguyễn Minh T2, sinh năm 1987. Địa chỉ: thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Quảng Nam (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 19 giờ ngày 03/07/2023, anh Đỗ Thế T đang ở nhà vợ tại thôn A, xã T, huyện B, tỉnh Quảng Nam thì được anh Nguyễn Ngọc H mời qua nhà vợ của anh H nhậu. Khi cả hai đến nhà vợ của anh H thì thấy có 03 người đàn ông đang ngồi nhậu thì anh H nói đi lên nhà ông Nguyễn Duy X lấy thịt cầy về làm mồi nhậu. Anh T đồng ý rồi đi về thay đồ và chở anh H đến nhà ông Nguyễn Duy X. Tại nhà ông X, sau khi ngồi chơi được khoảng 10 phút thì anh H điều khiển xe máy đi mua 10 quả trứng gà, còn anh Nguyễn Văn T1 (con ông Nguyễn Duy X) đi bắt gà làm thịt để nhậu. Tại cuộc nhậu gồm có anh Đỗ Thế T, anh Nguyễn Ngọc H, anh Nguyễn Văn T1, bị cáo Nguyễn Thành L, anh Nguyễn Minh T2 và một người tên H1. Trong quá trình nhậu thì các bên có nói qua lại với nhau. Sau đó, bị cáo Nguyễn Thành L đứng dậy cầm một cái ly thủy tinh, loại ly tròn, không có quai cầm ném thẳng trúng vào mặt của anh Đỗ Thế T. Sự việc sau đó được mọi người can ngăn và đưa anh T đến Trạm y tế xã T, huyện B cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện Đ, thành phố T, tỉnh Quảng Nam.
Tại Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 580/KLTTCT- TTPY ngày 20/07/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Q kết luận thương tích của anh Đỗ Thế T: 01 sẹo kích thước lớn vùng trán - thái dương trái đến gò má trái; 01 sẹo kích thước trung bình vùng môi trên bên trái đến phía trên ngành ngang bên trái xương hàm dưới (các vết thương này do vật tày có cạnh sắc tác động gây nên). Tỷ lệ thương tích tại thời điểm giám định là 14% (Mười bốn phần trăm).
Bản Cáo trạng số 25/CT-VKSBTM ngày 29 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam truy tố bị cáo Nguyễn Thành L về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (với tình tiết dùng hung khí nguy hiểm và có tính chất côn đồ theo điểm a, i khoản 1 Điều 134). Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung truy tố theo bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điềm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành L mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án.
Về trách nhiệm dân sự đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật, công nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường cho anh Đỗ Thế T số tiền 20.000.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy: 04 (bốn) mảnh thủy tinh, có hình dạng, kích thước khác nhau có các cạnh sắc được đựng trong 01 thố nhựa (dùng đề đựng thức ăn) không màu, có kích thước 17 cm x 12 cm x 7,5 cm và đã được niêm phong, có các chữ ký niêm phong gồm Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Văn T1, Trần Văn K.
Bị hại anh Đỗ Thế T yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại số tiền là 20.000.000 đồng và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo nói lời sau cùng mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy:
Vào khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 03/07/2023, tại nhà ông Nguyễn Duy X thuộc thôn A, xã T, huyện B, bị cáo Nguyễn Thành L và anh Đỗ Thế T có nói lời qua lại với nhau, bị cáo đã cầm một cái ly thủy tinh, loại ly tròn, không có quai cầm ném thẳng trúng vào mặt của anh Đỗ Thế T, gây ra thương tích với tỷ lệ là 14% (mười bốn phần trăm).
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu và thẩm tra phù hợp với lời khai của bị hại, những người làm chứng, phù hợp với kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống của Trung tâm pháp y tỉnh Q, phù hợp với biên bản kiểm tra, xác định nơi xảy ra vụ việc, sơ đồ nơi xảy ra vụ việc, bản ảnh kiểm tra, xác định nơi xảy ra vụ việc và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập.
Bị cáo Nguyễn Thành L nhận thức việc xâm phạm đến sức khỏe của người khác là vi phạm pháp luật nhưng không tuân thủ, chấp hành mà đã có hành vi cầm một cái ly thủy tinh, loại ly tròn, không có quai cầm, là hung khí nguy hiểm ném thẳng trúng vào mặt của anh Đỗ Thế T gây thương tích tỷ lệ là 14%. Bên cạnh đó, hành vi của bị cáo L là vô cớ, chỉ vì những lời nói qua lại tại cuộc nhậu mà gây thương tích cho bị hại, điều này thể hiện tính chất côn đồ của bị cáo.
Như vậy, Bản cáo trạng số 25/CTr-VKSBTM ngày 29 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa là có căn cứ và đúng pháp luật.
Hội đồng xét xử sơ thẩm có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Thành L đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, với tình tiết dùng hung khí nguy hiểm và có tính chất côn đồ quy định tại các điểm a và i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Hành vi của bị cáo thể hiện sự coi thường sức khỏe của người khác, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong nhân dân. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để quyết định hình phạt tương ứng thì mới thể hiện được tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[2] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Bị cáo đã tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại với số tiền là 6.000.000 đồng. Tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải, hối hận và muốn sửa chữa những sai lầm về hành vi phạm tội của mình. Người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo thuộc diện hộ nghèo tại địa phương nên Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xem xét giảm nhẹ khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[3] Về trách nhiệm dân sự:
[3.1] Bị hại anh Đỗ Thế T yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại bao gồm các chi phí điều trị với tổng số tiền là 28.400.000 đồng. Bị cáo đã bồi thường số tiền là 6.000.000 đồng. Tại phiên toà, anh T yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường số tiền là 20.000.000 đồng. Bị cáo thống nhất bồi thường toàn bộ số tiền trên cho anh T. Xét thấy, bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại là phù hợp với quy định tại các Điều 584, Điều 586 và Điều 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3.2] Đối với một cái ly thủy tinh, loại ly tròn, không có quai cầm mà bị cáo đã dùng đề ném anh Đỗ Thế T là tài sản của ông Nguyễn Duy X nhưng ông X không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về xử lý vật chứng:
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã thu giữ: 04 (bốn) mảnh thủy tinh, có hình dạng, kích thước khác nhau có các cạnh sắc được đựng trong 01 thố nhựa (dùng để đựng thức ăn) không màu, có kích thước 17cm x 12cm x 7,5cm và đã được niêm phong, có các chữ ký niêm phong gồm Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Văn T1, Trần Văn K. Xét thấy, vật chứng trên là công cụ mà bị cáo dùng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[5] Về án phí: bị cáo Nguyễn Thành L thuộc diện hộ nghèo năm 2024 và có đơn xin miễn toàn bộ tiền án phí sơ thẩm nên Hội đồng xét xử chấp nhận miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định tại điểm đ Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt Nguyễn Thành L 15 (mười lăm) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án. về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, Điều 586 và Điều 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015, công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại, cụ thể: bị cáo Nguyễn Thành L có nghĩa vụ bồi thường cho anh Đỗ Thế T số tiền là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kề từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy: 04 (bốn) mảnh thủy tinh, có hình dạng, kích thước khác nhau có các cạnh sắc được đựng trong 01 thố nhựa (dùng để đựng thức ăn) không màu, có kích thước 17cm x 12cm x 7,5cm và đã được niêm phong, có các chữ ký niêm phong gồm Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Văn T1, Trần Văn K.
(Vật chứng trên hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Trà My theo biên bản giao nhận ngày 23/01/2024).
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 12, khoản 1 Điều 23 và Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Thành L.
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 26/01/2024).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 01/2024/HS-ST
Số hiệu: | 01/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Trà My - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về