Bản án về tội chống người thi hành công vụ và cố ý gây thương tích số 57/2021/HSST

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 57/2021/HSST NGÀY 31/12/2021 VỀ TỘI CHNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ VÀ CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 31 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 47/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2021 đối với:

1. Bị cáo: N. V. Th.; Giới tính: Nam; Sinh năm 1987; Tên gọi khác: Không có. Nơi sinh: Huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Nơi ĐKTT: Ấp H. H., xã Ng. Đ, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo thên chúa. Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Giáo viên. Họ tên cha: Ng. V. N, không xác định được năm sinh (chết). Họ tên mẹ: Ng. T. H., sinh năm 1951 (s). Anh, em ruột có 07 người (tính luôn bị cáo), lớn nhất sinh năm 1968, nhỏ nhất là bị cáo. Vợ bị cáo tên: Tr. T.N.c L., sinh năm 1989. Con bị cáo có 02 người, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2021. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 03/3/2021, cho đến nay. (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trần Việt Hưng, sinh năm 1966; (vắng mặt).

Luật sư Văn phòng luật sư Việt Hưng – Đoàn luật sư tỉnh Sóc Trăng.

Đa chỉ: Số LK.02-41 đường C3, Khu dân cư Minh Châu, Khóm 1, Phường 7, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng 2. Bị hại:

2.1 Ông T. V. Gi., sinh năm 1984. (Có mặt) Địa chỉ: Ấp H. H., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

2.2 Ông Lê Thanh Nhã, sinh năm 2000. (Có mặt) Địa chỉ: Ấp Hòa Thượng, xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng 3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1 Ông Tr. V. Ch., sinh năm 1967; (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 54, ngách 3, ngõ 58 Tr. B., Tổ 24, phường M. D., quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

3.2 Ông Ng. B. H., sinh năm 1985; (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 7 ngõ 3 Ng. Th. H., phường Y. K., quận H. Đ., Thành phố Hà Nội.

3.3 Ông Ng. Đ. D., sinh năm 1971; (Vắng mặt) Địa chỉ: Nguyễn Du, huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội.

3.4 Ông Ph. A. T., sinh năm 1983; (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 10 Đ. Ng. B, Khu nhà ở xã hội Đ. K., phường Đ. K., quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội.

4. Người làm chứng:

4.1 Ông Trần Văn Ch., sinh năm 1962. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Hòa Mỹ, TT. Mỹ Xuyên, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

4.2 Bà Phan Thị Thu Th., sinh năm 1984. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Hòa Đặng, xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

4.3 Bà Lê Thị Thúy H., sinh năm 1990. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp H.Đ., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

4.4 Bà Đào Thị L., sinh năm 1970. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Hòa Th., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

4.5 Ông Nguyễn Văn Tr., sinh năm 1982. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Huỳnh Công Đ., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

4.6 Bà Trần Thị Nh., sinh năm 1980. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp H. Th., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng 4.7 Ông Lê Hoàng K., sinh năm 1973. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp H. H., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

4.8 Ông Nguyễn Văn Bon, sinh năm 1968. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp H. H., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

4.9 Ông Lê Thái H., sinh năm 1979. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp H. H., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

4.10 Ông Trịnh Thanh Ph., sinh năm 1973. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp H. Đ., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng 4.11 Ông Võ Văn T., sinh năm 1964. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp B. C., xã P. M., huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.

4.12 Ông Đoàn Bảo L., sinh năm 1980. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Lê Văn X., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng 4.13 Ông Nguyễn Văn Nh., sinh năm 1981. (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 911/65, QL1A, Phường 2, TP.Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng 4.14 Ông Trần Hoàng Đ., sinh năm 1985. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Hòa L., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

4.15 Ông Ngô Minh L., sinh năm 1973. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Gi. C., xã Th. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

4.16 Ông Ngô Quốc D., sinh năm 1981. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp H. C., xã H. T. 2, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

4.17 Bà Trần Thị Ngọc L., sinh năm 1989. (Có mặt) Địa chỉ: Ấp H. H., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng 4.18 Ông Huỳnh Văn K., sinh năm 1964. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp H. H., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng 4.19 Bà Nguyễn Thị H., sinh năm 1951. (Có mặt) Địa chỉ: Ấp H. H., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

4.20 Ông Nguyễn Văn Đ., sinh năm 1969. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Th. Ng. A, xã M. Ch., huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án như sau:

Thc hiện Quyết định số 2337/QĐ-BTNMT ngày 21/10/2020, của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc thành lập Đoàn xác minh do ông Ng. Đ. D., Thanh tra viên chính, Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường làm trưởng đoàn để tiến hành xác minh nội dung khiếu nại tại tỉnh Cà Mau và Sóc Trăng. Trên cơ sở đó, Đoàn xác minh đã xây dựng Kế hoạch ngày 29/10/2020 về xác minh nội dung khiếu nại tại tỉnh Sóc Trăng của ông Nguyễn Văn Đình (sinh năm 1969, hiện cư trú ấp Thạnh Nguyên A, xã Mỹ Chánh, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh) liên quan đến việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ không đúng quy định của pháp luật tại Cơ sở sản xuất kinh doanh của gia đình ông tại xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Theo đó, vào ngày 18/11/2020, Đoàn xác minh của Bộ Tài nguyên và Môi trường kết hợp với Thanh tra Nhà nước tỉnh Sóc Trăng, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng, Thanh tra Nhà nước huyện Mỹ Xuyên, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Mỹ Xuyên, Công an huyện Mỹ Xuyên cùng với Đại diện chính quyền và các ngành, đoàn thể xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên đến tại khu vực đất của ông Nguyễn Văn Đình tọa lạc ấp H. H., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng để tiến hành khảo sát, xác minh thực tế đất để phục vụ công tác giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Văn Đình.

Để phục vụ công tác cho Đoàn xác minh, ngày 17/11/2020, Ủy ban nhân dân xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên có ban hành Công văn số 47/UBND-VP chỉ đạo các ngành có liên quan, trong đó có giao nhiệm vụ cho Công an xã N. Đ. phân công lực lượng làm nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự phục vụ công tác khảo sát, xác minh của Đoàn. Về phía Công an xã N. Đ. đã xây dựng Kế hoạch số 18/KH-CAX ngày 17/11/2020 phân công ông Lê Văn Nuôl - Phó trưởng Công an xã và các ông T. V. Gi., Nguyễn Văn Lực, Lê Thanh Nhã - Công an viên xã có nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự phục vụ Đoàn công tác đến phần đất của ông Nguyễn Văn Đình tại ấp Hoà Hinh, xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng để tiến hành khảo sát, xác minh thực tế.

Đến khoảng 08 giờ 45 phút ngày 18/11/2020, khi các thành viên của Đoàn xác minh cùng với các ban, ngành, đoàn thể tỉnh, huyện và xã vừa đến khu vực đất ông Nguyễn Văn Đình tiến hành khảo sát, xác minh thực tế thì có N. V. Th. trên tay cầm cầm 01 cây leng là hung khí nguy hiểm từ trong nhà chạy ra đến phần đất của ông Nguyễn Văn Đình nơi các thành viên trong Đoàn đang đứng làm nhiệm vụ khảo sát. Lúc này, Thiệt cầm cây leng trên tay đập xuống miếng đal gần chân các thành viên trong Đoàn khảo sát đứng làm lưỡi cây leng bị văng ra ngoài, Thiệt tiếp tục cầm cán leng bằng gỗ xông vào giơ lên đánh về phía những người trong Đoàn thì ông T. V. Gi. và Lê Thanh Nhã là Công an viên xã N. Đ. đang thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự liền vào can ngăn. Ông Giàu kêu lên“Thiệt dừng lại” nhưng Thiệt không chấp hành và dùng cán leng đánh ông Giàu nhiều cái, trúng vào vai bên trái, ngón cái bàn tay trái, mu bàn chân trái của ông Giàu, tiếp đến Thiệt tiếp tục dùng cán leng đánh trúng vào vùng mông phải của ông Trần Văn Ch. – Phó Thanh tra Nhà nước huyện Mỹ Xuyên (thành viên đi cùng Đoàn xác minh). Khi Thiệt giơ cán leng lên tiếp tục đánh về phía ông Chính thì lực lượng Công an xã và huyện làm nhiệm vụ vào can ngăn, khống chế Thiệt nhưng Thiệt vùng vẫy thoát ra được, sau đó lội xuống kênh cặp nhà và bơi về nhà Thiệt. Lúc này, Thiệt từ trong nhà đi ra trước sân nhà Thiệt trên tay cầm một cây dao tự chế có chiều dài 61,5cm, cán bằng gỗ dài 20,5cm, lưỡi bằng kim loại dài 41cm, nơi rộng nhất của lưỡi là 07cm và nói “Đất này của gia đình, thằng nào vào đây tao chém chết”, không thấy ai vào nên Thiệt dùng đá ném ra lộ về phía thành viên Đoàn xác minh đang đứng nhưng không trúng ai. Sau đó, Thiệt cầm dao tự chế trên tay trái đi tới lui trước sân nhà, dùng dao chém vào những chai bia, đập đồ trước sân nhà, tiếp tục đe dọa Đoàn xác minh, không cho Đoàn vào thực hiện nhiệm vụ. Do Thiệt có hành vi dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực không cho tiến hành khảo sát nên Đoàn xác minh không thể tiếp tục thực hiện nhiệm vụ và rời khỏi khu vực khảo sát, xác minh thực tế.

Trưc hành vi manh động, liều lĩnh, xem thường pháp luật của N. V. Th., mặc dù đã vận động, thuyết phục nhưng không được nên Công an huyện Mỹ Xuyên đã đề nghị lực lượng Cảnh sát 113 Công an tỉnh Sóc Trăng đến hỗ trợ, đồng thời tiến hành bắt giữ Thiệt và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với N. V. Th. về hành vi Chống người thi hành công vụ.

Hậu quả: Đoàn xác minh không thực hiện được nhiệm vụ xác minh thực tế đất của ông Nguyễn Văn Đình vào ngày 18/11/2020; Ông Trần Văn Ch., Phó Chánh Thanh tra Nhà nước huyện Mỹ Xuyên bị xây xát nhẹ, ông T. V. Gi. bị thương tích phải nằm viện điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện Mỹ Xuyên. Sau khi xuất viện, ông Giàu và ông Nhã có đơn yêu cầu xử lý đối với hành vi gây thương tích của N. V. Th..

Tại Bản kết luận giám định Pháp y về thương tích số: 347/TgT-PY ngày 07/12/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Sóc Trăng đối với tỉ lệ tổn thương cơ thể của ông T. V. Gi. kết luận: Tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể của ông T. V. Gi. do thương tích gây nên tính theo Thông tư số 22/2019/TT-BYT, ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế hiện tại là: 06% (Sáu phần trăm). Kết luận khác: Tổn thương do vật tày gây nên.

Bản kết luận giám định Pháp y về thương tích số 38/TgT-PY ngày 29/01/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Sóc Trăng, đối với tỉ lệ tổn thương cơ thể của Lê Thanh Nhã kết luận: Tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể của Lê Thanh Nhã do thương tích gây nên tính theo Thông tư số: 22/2019/TT-BYT, ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế hiện tại là 01% (Một phần trăm). Kết luận khác: Tổn thương theo giấy xác nhận thương tích của Trung tâm y tế huyện Mỹ Xuyên là do va chạm với vật tày.

- Qua kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm, kết quả điều tra, xác minh và khám nghiệm hiện trường, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với N. V. Th.. Tại Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng, bị cáo N. V. Th. thừa nhận hành vi phạm tội do mình đã gây ra.

- Về vật chứng của vụ án, Cơ quan CSĐT đã thu giữ và còn quản lý gồm: 01 khúc cây gỗ dài 64cm (dùng làm cán cây leng); 01 lưỡi leng dài 24cm, rộng 16,5 cm;

01 cây dao tự chế dài 61,5cm, cán bằng gỗ dài 20,5cm, lưỡi bằng kim loại dài 41cm, nơi rộng nhất của lưỡi là 07cm; 01 cây phản dài 91,5cm, không có cán, chổ rộng nhất là 07cm, chổ nhỏ nhất là là 02cm, phần lưỡi được mài sắc; 01 cán gỗ có dính thanh sắt dài 27,5cm, phần cán dài 23cm, phần thanh sắt dài 4,5cm, chổ rộng nhất của thanh sắt dài 03cm; 01 mũi khoan dài 32cm, mũi nhọn, xung quanh mũi khoan có gắn tấm kim loại hình xoắn ốc; 01 cục đá mài đã qua sử dụng, dài 20,5cm, lỏm phần giữa thân, ngang rộng 05cm; 01 cây dao dài 44cm, cán bằng gỗ dài 16cm, lưỡi dài 28 cm, chổ rộng nhất lưỡi dao là 06cm; 01 máy mài có gắn lưỡi mài hình tròn, đường kín 10,5cm.

- Bản Cáo trạng số: 24/CT-VKSMX ngày 26 tháng 4 năm 2021 và Công văn số 188/CV- VKSMX ngày 30/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo N. V. Th. về "Tội chống người thi hành công vụ” và “ Tội cố ý gây thương tích” theo quy định tại Khoản 1 Điều 330 và các điểm a, k Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên toà sơ thẩm, bị hại T. V. Gi. trình bày: Ngày 17/11/2020 bị cáo N. V. Th. đã dùng cán leng bằng gỗ là hung khí nguy hiểm đánh ông Giàu nhiều cái, trúng vào vai bên trái, ngón cái bàn tay trái, mu bàn chân trái của ông Giàu gây ra thương tích với tỉ lệ tổn thương cơ thể qua giám định là 06%. Bị hại thống nhất với Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số:

347/TgT-PY ngày 07/12/2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Sóc Trăng kết luận. Yêu cầu bị cáo N. V. Th. bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm gồm các khoản chi phí điều trị tiền thất công lao động và tiền tổn thất tinh thần tổng cộng là 4.000.000 đồng. Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý bị cáo N. V. Th. theo quy định pháp luật.

Bị hại Lê Thanh Nhã trình bày: Ngày 17/11/2020 khi các thành viên của Đoàn xác minh cùng với các ban, ngành, đoàn thể tỉnh, huyện và xã vừa đến khu vực đất ông Nguyễn Văn Đình tiến hành khảo sát, xác minh thực tế thì có N. V. Th. trên tay cầm cầm 01 cây leng là hung khí nguy hiểm từ trong nhà chạy ra đến phần đất của ông Nguyễn Văn Đình nơi các thành viên trong Đoàn đang đứng làm nhiệm vụ khảo sát tấn công vào những người thực hiện nhiệm vụ trong Đoàn, thấy vậy bị hại chạy đến ngăn cản. Trong lúc ngăn cản, xô xát với N. V. Th. thì bị Thiệt làm bị thương ở ngón tay bàn tay phải, gây ra thương tích với tỉ lệ tổn thương cơ thể qua giám định là 01%. Bị hại thống nhất với Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 38/TgT-PY ngày 29/01/2021, của Trung tâm Pháp y tỉnh Sóc Trăng, kết luận. Không yêu cầu bị cáo Thiệt bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm. Về trách nhiệm hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý bị cáo N. V. Th. theo quy định pháp luật.

- Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo N. V. Th. theo như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo N. V. Th. phạm “Tội chống người thi hành công vụ” và “ Tội cố ý gây thương tích”. Áp dụng điểm a, k khoản 1 Điều 134; khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55; khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù về “Tội cố ý gây thương tích”. Xử phạt từ 01 năm đến 01 năm 06 sáu tháng tù về “Tội chống người thi hành công vụ”. Thời hạn tính hình phạt tù kể từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 03/3/2021.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 584; Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 buộc bị cáo N. V. Th. phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm cho T. V. Gi. số tiền là 4.000.000 đồng. Bị hại Lê Thanh Nhã không yêu cầu nên không đề nghị xem xét Về xử lý vật chứng Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy 01 khúc cây gỗ dài 64cm (dùng làm cán cây len); 01 lưỡi len dài 24cm, rộng 16,5 cm; 01 cây dao tự chế dài 61,5cm, cán bằng gỗ dài 20,5cm, lưỡi bằng kim loại dài 41cm, nơi rộng nhất của lưỡi là 07cm.

Đi với vật chứng 01 cây phản dài 91,5cm, không có cán, chỗ rộng nhất là 07cm, chỗ nhỏ nhất là là 02cm phần lưỡi được mài sắc; 01 cán gỗ có dính thanh sắt dài 27,5cm, phần cán dài 23cm, phần thanh sắt dài 4,5cm, chỗ rộng nhất của thanh sắt dài 03cm; 01 mũi khoan dài 32cm, mũi nhọn, xung quanh mũi khoan có gắn tấm kim loại hình xoắn ốc; 01 cục đá mài đã qua sử dụng, dài 20,5cm, lỏm phần giữa thân, ngang rộng 05cm; 01 cây dao dài 44cm, cán bằng gỗ dài 16cm, lưỡi dài 28 cm, chỗ rộng nhất lưỡi dao là 06cm; 01 máy mài có gắn lưỡi mài hình tròn, đường kín 10,5cm. không liên quan đến vụ án đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để trả lại cho bị cáo N. V. Th..

- Đối với bị cáo N. V. Th.: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố và Bản luận tội của Viện kiểm sát, xin giảm nhẹ hình phạt khi nói lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Xuyên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Xuyên, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện theo quy định pháp luật về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

Tại phiên toà, người bào chữa cho bị cáo là Luật sư Trần Việt Hưng đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên toà và tại phiên toà bị cáo N. V. Th. yêu cầu xét xử vắng mặt người bào chữa. Người làm chứng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Xét thấy, những người này đã được Toà án triệu tập hợp lệ, có lời khai trong quá trình điều tra phù hợp với lời khai của bị cáo và những chứng cứ đã thu thập nên sự vắng mặt của họ không trở ngại cho quá trình xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 291 Điều 292, Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng.

[2] Tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình điều tra vụ án, bị cáo N. V. Th. đã thừa nhận: Do bức xúc về việc giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai của gia đình bị cáo kéo dài nhiều năm chưa được giải quyết. Vào khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 18/11/2020, khi các thành viên Đoàn xác minh của Bộ Tài Nguyên và Môi trường do ông Ng. Đ. D., Thanh tra viên chính, Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường làm trưởng đoàn cùng với các ban, ngành, đoàn thể tỉnh, huyện và xã đến khu vực đất của ông Nguyễn Văn Đình tọa lạc ấp H. H., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng để tiến hành khảo sát, xác minh thực tế đất để phục vụ công tác giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Văn Đình thì bị cáo trên tay cầm 01 cây leng trong nhà chạy ra đến phần đất nơi các thành viên trong Đoàn đang đứng làm nhiệm vụ khảo sát ngăn cản. Sau đó dùng cây leng cầm trên tay đập xuống miếng đal gần chân các thành viên trong Đoàn khảo sát đứng làm lưỡi cây leng bị văng ra ngoài, tiếp tục cầm cán leng bằng gỗ xông vào giơ lên đánh về phía những người trong Đoàn thì ông T. V. Gi. và Lê Thanh N. là Công an viên xã N. Đ. can ngăn nên xảy ra xô xát với nhau. Hậu quả làm cho các thành viên trong Đoàn khảo sát không thể thực hiện được nhiệm vụ. Đồng thời làm cho anh Nhã bị thương tích ở ngón bàn tay và anh Giàu bị gãy ngón chân trên bàn chân trái phải nằm viện điều trị thương tích. Nhận thấy, lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với Biên bản sự việc xảy ra ngày 18/11/2020, Biên bản 18/11/2020 về việc Đoàn xác minh của Bộ Tài Nguyên và Môi trường không thực hiện được nhiệm vụ; Biên bản thu hồi vật chứng; Biên bản khám nghiệm hiện trường; Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 347/TgT-PY, ngày 07/12/2020 và Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 38/TgT-PY, ngày 29/01/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Sóc Trăng; Kết luận điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Xuyên. Phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, hành vi của bị cáo N. V. Th. đủ yếu tố cấu thành tội "Chống người thi hành công vụ" quy định tại khoản 1 Điều 330 và tội “Cố ý gây thương tích”, theo quy định tại điểm a, điểm k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo N. V. Th. khi thực hiện hành vi phạm tội là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến hoạt động bình thường đúng đắng của Cơ quan Nhà nước, của cán bộ công chức, những người được giao nhiệm vụ công vụ và xâm phạm đến sức khỏe của người khác nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Xuyên truy tố bị cáo N. V. Th. về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a, điểm k khoản 1 Điều 134 và tội "Chống người thi hành công vụ" quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo N. V. Th. là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của bị hại T. V. Gi., Lê Thanh Nhã được pháp luật bảo vệ; xâm phạm trực tiếp đến hoạt động bình thường đúng đắng của cơ quan Nhà nước, của cán bộ công chức, những người được giao thực hiện nhiệm vụ công vụ mà còn gây dư luận xấu, làm mất an ninh, trật tự tại địa phương và an toàn xã hội. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo N. V. Th. phải bị xử phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời răn đe cho người khác, góp phần vào công tác ngăn ngừa, phòng chống tội phạm chung.

Từ những nhận định trên đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo N. V. Th. đã có hành vi dùng vũ lực đe doạ dùng vũ lực cản trở người thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ công vụ làm cho các thành viên trong Đoàn xác minh của Bộ Tài Nguyên và Môi trường cùng và thành viên của các ban ngành đoàn thể cấp tỉnh cấp huyện cấp xã không thực hiện nhiệm vụ khảo sát, xác minh thực tế tại phần đất của ông Nguyễn Văn Đình tại ấp H. H., xã N. Đ., huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng theo kế hoạch đã đề ra. Đồng thời bị cáo đã dùng cây cán leng bằng gỗ là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho các bị hại, làm bị hại T. V. Gi. bị tổn thương cơ thể 6%; bị hại Lê Thanh Nhã bị tổn thương cơ thể 1%. Nên bị cáo đã phạm tội “Chống người thi hành công vụ” quy định tại khoản 1 Điều 330 và tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm a, k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo N. V. Th. thấy rằng: Bị cáo N. V. Th. không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 mà bị cáo được hưởng. Bên cạnh đó, bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, quá trình công tác luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, hàng năm đều được công nhận và trao tặng Giấy khen lao động tiên tiến cũng là những tình tiết thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên ý kiến của Kiểm sát viên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt khi quyết định hình phạt đối với bị cáo N. V. Th. là có cơ sở chấp nhận. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 50, điều 58 và khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để quyết định một hình phạt tù có thời hạn tương xứng tính chất, mức độ phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội sau này.

[5] Trách nhiệm dân sự: Tại phiên toà bị hại T. V. Gi. và bị cáo N. V. Th. đã tự thoả thuận với nhau về mức bồi thường thiệt hại, bị cáo N. V. Th. bồi thường cho bị hại T. V. Gi. số tiền 4.000.000 đồng. Xét thấy việc thoả thuận mức bồi thường thiệt hại của bị cáo và bị hại là tự nguyện không trái với đạo đức xã hội và quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thoả thuận giữa bị cáo và bị hại về việc bị cáo N. V. Th. tiếp tục bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho bị hại T. V. Gi. số tiền 4.000.000 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà bị hại Lê Thanh Nhã không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra vụ án có thu giữ vật chứng gồm: 01 khúc cây gỗ dài 64cm (dùng làm cán cây len); 01 lưỡi len dài 24cm, rộng 16,5 cm; 01 cây dao tự chế dài 61,5cm, cán bằng gỗ dài 20,5cm, lưỡi bằng kim loại dài 41cm, nơi rộng nhất của lưỡi là 07cm là công cụ phương tiện phạm tội. Xét thấy, những vật chứng cũng không còn giá trị và không sử dụng được nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy.

Đi với các vật chứng: 01 cây phản dài 91,5cm, không có cán, chỗ rộng nhất là 07cm, chỗ nhỏ nhất là là 02cm phần lưỡi được mài sắc; 01 cán gỗ có dính thanh sắt dài 27,5cm, phần cán dài 23cm, phần thanh sắt dài 4,5cm, chỗ rộng nhất của thanh sắt dài 03cm; 01 mũi khoan dài 32cm, mũi nhọn, xung quanh mũi khoan có gắn tấm kim loại hình xoắn ốc; 01 cục đá mài đã qua sử dụng, dài 20,5cm, lỏm phần giữa thân, ngang rộng 05cm; 01 cây dao dài 44cm, cán bằng gỗ dài 16cm, lưỡi dài 28 cm, chỗ rộng nhất lưỡi dao là 06cm; 01 máy mài có gắn lưỡi mài hình tròn, đường kín 10,5cm. Xét thấy các vật chứng trên không liên quan đến vụ án nên Hội đồng xét xử căn điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để trả lại cho bị cáo N. V.

Th..

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23; điểm b khoản 1 Điều 24 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Buộc bị cáo N. V. Th. phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm không có giá nghạch là: 200.000 đồng.

Xét lời đề nghị của vị Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà hôm nay là có căn cứ, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Điểm a, điểm k khoản 1 Điều 134; khoản 1 Điều 330 ; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55; khoản 1 Điều 38, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Căn cứ điểm c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 291, khoản 1Điều 292, khoản 2 Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

- Căn cứ Điều 584, Điều 585, Điều 586; Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23; điểm b khoản 1 Điều 24 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo N. V. Th. phạm các tội: “Tội chống người thi hành công vụ” và “Tội cố ý gây thương tích”.

1. Xử phạt: Bị cáo N. V. Th. 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về “Tội chống người thi hành công vụ” và 09 (chín) tháng tù về “Tội cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai tội, buộc bị cáo N. V. Th. phải chấp hành là 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 03/3/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo N. V. Th. phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm cho bị hại T. V. Gi. số tiền là 4.000.000 đồng.

Khi bản án có hiệu lực pháp luật thì hàng tháng bị cáo N. V. Th. còn phải trả lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

3. Về xử lý vật chứng:

Tch thu tiêu huỷ 01 khúc cây gỗ dài 64cm (dùng làm cán cây len); 01 lưỡi len dài 24cm, rộng 16,5 cm; 01 cây dao tự chế dài 61,5cm, cán bằng gỗ dài 20,5cm, lưỡi bằng kim loại dài 41cm, nơi rộng nhất của lưỡi là 07cm;

Trả cho bị cáo N. V. Th.: 01 cây phản dài 91,5cm, không có cán, chỗ rộng nhất là 07cm, chỗ nhỏ nhất là là 02cm, phần lưỡi được mài sắc; 01 cán gỗ có dính thanh sắt dài 27,5cm, phần cán dài 23cm, phần thanh sắt dài 4,5cm, chổ rộng nhất của thanh sắt dài 03cm; 01 mũi khoan dài 32cm, mũi nhọn, xung quanh mũi khoan có gắn tấm kim loại hình xoắn ốc; 01 cục đá mài đã qua sử dụng, dài 20,5cm, lỏm phần giữa thân, ngang rộng 05cm; 01 cây dao dài 44cm, cán bằng gỗ dài 16cm, lưỡi dài 28 cm, chỗ rộng nhất lưỡi dao là 06cm; 01 máy mài có gắn lưỡi mài hình tròn, đường kín 10,5cm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/6/2020 của Cơ quan điều tra Công an huyện Mỹ Xuyên với Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên.

4. Về án phí: Buộc bị cáo N. V. Th. phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chống người thi hành công vụ và cố ý gây thương tích số 57/2021/HSST

Số hiệu:57/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về