Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 26/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHƯỚC, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 26/2023/HS-ST NGÀY 21/06/2023 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Trong ngày 21 tháng 6 năm 2023 tại Trại giam Phước H, Cục C10 – Bộ Công an. Địa chỉ: ấp Hòa Đông, xã Thạnh H, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 20/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Phạm Văn S, sinh năm 1983 tại tỉnh B; Tên gọi khác: H; Nơi cư trú: Thôn T, xã T, thành phố P, tỉnh B; Nghề nghiệp: Phạm nhân đang chấp hành án; Trình độ văn hoá: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm T và bà Nguyễn Thị P; Bị cáo S chưa có vợ, con; Tiền sự: Không; Tiền án: Có 01 tiền án: Ngày 21/11/2007 bị Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt 18 năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/01/2007. Ngày 26/11/2012 đến chấp hành án tại Trại giam Phước H, Cục C10I – Bộ Công an, tọa lạc tại ấp Hòa Đông, xã Thạnh H, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Trại giam Phước H, Cục C10 – Bộ Công an.

Địa chỉ: ấp Hòa Đông, xã Thạnh H, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang

Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1972.

Chức vụ: Giám thị

Đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn Đ: Ông Dương Quốc V, sinh năm 1974. (có mặt)  Chức vụ: Trưởng Phân Trại số 3 – trại Giam Phước H

2. Anh Tạ Thanh N, sinh năm 1980. (có mặt) Địa chỉ: ấp Hòa Đông, xã Thạnh H, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang (hiện đang công tác tại Phân trại số 3, Trại giam Phước H, Cục C10 – Bộ Công an).

- Người làm chứng:

1. Anh Phạm Quốc L, sinh năm 1990. (có mặt) Địa chỉ: ấp M, xã M, huyện C, tỉnh T (hiện đang công tác tại Phân trại số 3, Trại giam Phước H, Cục C10 – Bộ Công an);

2. Anh Nguyễn Minh S, sinh năm 1992. (có mặt) Địa chỉ: Hiện đang chấp hành án tại Đội 10, Phân trại số 3, Trại giam Phước H, Cục C10 – Bộ Công an);

3. Anh Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1982. (có mặt) Địa chỉ: Hiện đang chấp hành án tại Đội 2, Phân trại số 3, Trại giam Phước H, Cục C10 – Bộ Công an);

4. Anh Dương Đức P, sinh năm 1987. (có mặt) Địa chỉ: Hiện đang chấp hành án tại Đội 2, Phân trại số 3, Trại giam Phước H, Cục C10 – Bộ Công an);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Phạm Văn S bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Ngày 26/11/2012, phạm nhân Phạm Văn S được điều chuyển đến chấp hành án phạt tù với thời hạn 18 năm về tội “Giết người”, thời hạn chấp hành án được tính từ ngày 09/01/2007 theo bản án hình sự sơ thẩm số 163/2007/HSST ngày 21/11/2007 và Quyết định thi hành án phạt tù số 236/2007/QĐ-CA ngày 25/12/2007 của Toà án nhân dân tỉnh B tại Đội số 02, Phân trại số 3 - Trại giam Phước Hoà, Cục C10, Bộ Công an đóng tại ấp Hoà Đông, xã Thạnh H, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.

Khoảng 07 giờ ngày 15/11/2022, Ban giám thị Trại giam trích xuất cho các phạm nhân Đội 02, Đội 10 và Đội 20 với tổng số lượng 80 phạm nhân ra lao động. Trong đó có phạm nhân Phạm Văn S đến khu nhà xưởng may bao bì (Nhà lao động D8) thuộc Phân trại số 3 để gia công may bao bì như thường ngày. Sang được bố trí may gia công tại máy số 07 bên phải theo hướng từ cửa phía Tây đi vào (khoảng giữa khu nhà xưởng). Đến khoảng 09 giờ cùng ngày, S cho rằng do được trích xuất ra lao động trễ, số lượng hàng gia công khoán cho S ít, không vượt khoán, không tăng thu nhập được (Vì trong suốt quá trình chấp hành án do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ít được gia đình thăm gặp, gửi quà vì vậy bản thân phải cố gắng lao động vượt khoán để tăng thêm thu nhập nhằm tự chu cấp cho bản thân) nên S không hài lòng, bực bội, khó chịu trong người và tự ý dừng lao động, đứng dậy nói với tất cả các phạm nhân trong xưởng “Anh em nghỉ hết đi, đừng làm nữa” rồi S xô bàn máy may tại vị trí mình đang lao động ngã xuống nền. Tiếp đến, S cầm băng ghế gỗ đang đập vào cột bêtông cạnh vị trí đang ngồi và la hét. S tiếp tục đến vị trí bàn máy may số 05 cùng dãy là nơi phạm nhân Dương Đức P, sinh năm 1987, ĐKTT: Ấp M, xã N, huyện D, tỉnh T đang lao động, S giật kéo nhấp chỉ của P nhưng P giật lại và nói “Thôi bỏ đi” nhưng S không dừng lại mà tiếp tục lấy băng ghế nêu trên đập gãy và lấy 01 đoạn gỗ dài 62,5 cm, một đầu rộng 08 cm, một đầu rộng 04 cm, dày 1,5 cm, có một mặt sơn màu xanh dương cầm trên tay và đi về hướng Đông khoảng 24 mét là nơi bố trí bàn làm việc của cán bộ quản giáo Phạm Quốc L, sinh năm 1990, ĐKTT: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh T. Thấy vậy, anh L dứng dậy và bước ra ngoài điện đàm báo cáo lãnh đạo cho lực lượng đến hỗ trợ trấn áp S đang gây rối.

Lúc này, tại gốc Tây Bắc của khu nhà xưởng là nơi bố trí bàn làm việc của cán bộ quản giáo Tạ Thanh N, sinh năm 1980, ĐKTT: Ấp H, xã T, huyện T, tỉnh T, cấp bậc: Thiếu tá, chức vụ: quản giáo được phân công quản lý phạm nhân và đảm bảo an ninh trật tự trong khu nhà xưởng đang ngồi quản lý phạm nhân cách nơi S lao động khoảng 10 mét. Thấy S gây rối nên anh N đến cách S khoảng 05 – 07 mét và vừa đi, vừa nói “Tôi yêu cầu phạm nhân S dừng lại”. Thời điểm này, khi S đang đi về hướng quản giáo Phạm Quốc L thì nghe tiếng của quản giáo Tạ Thanh N nên quay lại và cầm đoạn gỗ trên đánh vào người nên anh N giơ tay trái lên đỡ và tránh về hướng bên phải, S tiếp tục cầm đoạn gỗ đánh xuống người anh N nhưng do vướng dây điện máng bóng đèn phía trên nên không đánh được. Anh N sử dụng bình xịt hơi cay được trang bị xịt vào người S và cùng các phạm nhân khác đang lao động tại đây khống chế S. Sau đó, Trại giam Phước Hoà lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ tang vật. Đến ngày 22/11/2022 thì chuyển hồ sơ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Phước giải quyết theo thẩm quyền.

Sau khi bị đánh anh Tạ Thanh N bị bầm đỏ ngoài da, anh N không nhập viện điều trị và không yêu cầu giám định thương tích. Riêng đối với băng ghế gỗ, bàn máy may bị hư hỏng, sau khi sự việc xảy ra Trại giam xác định tài sản bị hư hỏng có giá trị không lớn nên đã tự sửa chữa.

Về thu giữ và xử lý vật chứng: 01 (một) đoạn gỗ dài 62,5 cm, một đầu rộng 08 cm, một đầu rộng 04 cm, dày 1,5 cm, có một mặt sơn màu xanh dương (Đã được niêm phong). Đối với đoạn gỗ này, Viện kiểm sát nhân dân đã ra quyết định chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phước quản lý chờ xử lý theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Tạ Thanh N không yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí điều trị thương tích. Đồng thời, ông Nguyễn Văn Đ là Giám thị Trại giam Phước Hoà cũng không yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí sửa chữa đối với băng ghế gỗ, bàn máy may bị hư hỏng.

Tại bản cáo trạng số 21/CT-VKS-TP ngày 23/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Tân Phước để xét xử đối với bị cáo Phạm Văn S về tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại Khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận xác định: Khoảng 09 giờ ngày 15/11/2022, trong lúc đang lao động tại Nhà xưởng D8 thuộc Phân trại số 3 - Trại giam Phước Hoà thuộc ấp Hoà Đông, xã Thạnh H, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. Bị cáo Phạm Văn S đã có hành vi la hét, xô ngã bàn máy may, đập băng ghế gỗ đang ngồi. Sự việc được anh Tạ Thanh N là cán bộ quản giáo đến yêu cầu dừng lại nhưng S không chấp hành mà còn có hành vi dùng đoạn gỗ đánh vào người anh N gây cản trở việc anh N thi hành công vụ đã được Ban Giám thị Trại giam phân công. Vì vậy Phạm Văn S phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình. Do đó có cơ sở xác định bị cáo Phạm Văn S đã phạm tội “Chống người thi hành công vụ” theo Khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 330; Điều 38; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phạm Văn S từ 01 đến 02 năm tù; xử lý vật chứng của vụ án và bị cáo phải chịu án phí theo qui định.

Bị cáo thống nhất với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì.

Người người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thống nhất với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phước, của Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước, của Kiểm sát viên trong quá trình tiến hành tố tụng điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, tình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Phạm Văn S đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình là vào khoảng 09 giờ ngày 15/11/2022, trong lúc đang lao động tại Nhà xưởng D8 thuộc Phân trại số 3 - Trại giam Phước Hoà thuộc ấp Hoà Đông, xã Thạnh H, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. Bị cáo Phạm Văn S đã có hành vi la hét, xô ngã bàn máy may, đập băng ghế gỗ đang ngồi. Sự việc được anh Tạ Thanh N là cán bộ quản giáo đến yêu cầu dừng lại nhưng S không chấp hành mà còn có hành vi dùng đoạn gỗ đánh vào người anh N gây cản trở việc anh N thi hành công vụ đã được Ban Giám thị Trại giam phân công.

Lời thừa nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của người có liên quan, người làm chứng trong vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận, hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Văn S đã cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ”. Tội danh và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự năm 2015, nên bản cáo trạng số 21/CT-VKSTP ngày 23/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước truy tố bị cáo Phạm Văn S về tội danh và hình phạt đã nêu trên là có căn cứ đúng pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự trật tự quản lý giam giữ, cải tạo, giáo dục người vi phạm pháp luật nói chung và của Trại giam Phước H nói riêng, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở Trại giam, gây tư tưởng hoang mang, bất bình đối với các phạm nhân khác đang lao động cải tạo; xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của anh N là cán bộ quản giao của Trại giam Phước H. Bị cáo nhận thức được rằng, hoạt động giam giữ, cải tạo, lao động ở Trại giam được pháp luật quy định và cán bộ quản giáo của Trại giam là người thực thi nhiệm vụ đó. Bị cáo có nghĩa vụ chấp hành các quy định của Trại giam khi chấp hành án tại đây, việc xâm phạm trật tự quản lý giam giữ, đến sức khỏe của cán bộ quản giáo là vi phạm pháp luật. Nhưng do bản chất côn đồ, xem thường pháp luật và sức khỏe của người khác mà bị cáo bất chấp tất cả để thực hiện hành vi phạm tội của mình. Bị cáo phạm tội với quyết tâm cao, thể hiện sự liều lĩnh, xem thường pháp luật Nhà nước, xâm phạm đến trật tự của cơ quan bảo vệ pháp luật, làm ảnh hưởng xấu đến quá trình học tập, cải tạo và chấp hành án của các phạm nhân khác trong Trại. Bản thân bị cáo là người đang chấp hành án, nên bị cáo biết rõ Trại giam là nơi giam giữ, cải tạo, giáo dục người vi phạm pháp luật, trong đó có bản thân bị cáo. Lẽ ra khi bị cán bộ quản giáo của Trại nhắc nhở yêu cầu dừng lại thì bị cáo phải có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, nội quy, quy chế sinh hoạt của Trại, an tâm học tập, lao động cải tạo để được xem xét khoan hồng, sớm về đoàn tụ với gia đình, hòa nhập với cộng đồng xã hội, nhưng do bản chất côn đồ, xem thường pháp luật và sức khỏe của người khác mà bị cáo bất chấp tất cả để thực hiện hành vi phạm tội của mình và dùng cây đánh anh N là cán bộ quản giáo của Trại. Xã hội đang lên án những hành vi, việc làm như bị cáo, do đó cần áp dụng một mức hình phạt thỏa đáng, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, là tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, để cải tạo, giáo dục bản thân bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội, đồng thời để làm thức tỉnh những ai đang mang tư tưởng chống người thi hành công vụ như bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, nhân thân và hình phạt cần áp dụng đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu, tại bản án số 163/2007/HSST ngày 21/11/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh B đã xử phạt bị cáo 18 năm tù. Nay bị cáo lại phạm tội mới do cố ý trong quá trình chấp hành án nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội bị cáo Phạm Văn S đã thật thà khai báo, ăn năn hối cãi, đây là các tình tiết giảm nhẹ được qui định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử có xem xét khi nghị án, áp dụng hình phạt.

Hội đồng xét xử xét thấy Ngày 21/11/2007 bị cáo S bị Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt 18 năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/01/2007. Ngày 26/11/2012 đến chấp hành án tại Trại giam Phước H, Cục C10I – Bộ Công an. Nay bị cáo lại phạm tội mới trong quá trình chấp hành án nên Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 2 Điều 56 của Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt đối với phần hình phạt còn lại của bị cáo chưa chấp hành đến ngày hôm nay là 01 năm 06 tháng 18 ngày.

[5] Về vật chứng của vụ án:

+ Thu giữ trong giai đoạn điều tra: 01 (một) đoạn gỗ dài 62,5 cm, một đầu rộng 08 cm, một đầu rộng 04 cm, dày 1,5 cm, có một mặt sơn màu xanh dương (đã được niêm phong). Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước đang tạm giữ: Xét thấy đây là tài sản thuộc quyền quản lý của Trại giam Phước H, bị cáo dùng làm công cụ phạm tội, Trại giam Phước H không có yêu cầu nhận lại và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa người có liên quan anh Tạ Thanh N không yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí điều trị thương tích. Anh Dương Quốc V đại diện ủy quyền của Giám thị Trại giam cũng không yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí sửa chữa đối với băng ghế gỗ, bàn máy may bị hư nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[8] Xét lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử về tội danh, hình phạt, Hội đồng xét xử có ghi nhận khi nghị án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn S đã phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

- Áp dụng Khoản 1 Điều 330; Điều 38; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn S 02 (hai) năm tù.

Áp dụng Khoản 2 Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 Tổng hợp hình phạt với thời gian chưa chấp hành hình phạt còn lại của bản án số 163/2007/HSST ngày 21/11/2007 của Tòa án nhân dân tỉnh B là 01 năm 06 tháng 18 ngày. Tổng hợp hình phạt chung bị cáo Phạm văn S phải chấp hành là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng 18 (mười tám) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/6/2023.

2. Về vật chứng:

- Áp dụng Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy vật chứng gồm: 01 (một) đoạn gỗ dài 62,5 cm, một đầu rộng 08 cm, một đầu rộng 04 cm, dày 1,5 cm, có một mặt sơn màu xanh dương (Đã được niêm phong).

Tất cả số vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang đang tạm giữ. Thực hiện việc tịch thu tiêu hủy khi án có hiệu lực pháp luật.

3. Về án phí:

- Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Văn S phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, người có liên quan được thực hiện quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 26/2023/HS-ST

Số hiệu:26/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về