Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 22/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 22/2021/HS-ST NGÀY 01/03/2021 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 01 tháng 03 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 17/2021/TLST- HS ngày 01 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2021/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Ngọc Huân, sinh năm 1985 tại tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: Thôn T, xã P, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn H1 (đã chết) và bà Điền Thị B; chung sống với chị Đỗ Thị N như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn và có 01 con sinh năm 2018; tiền sự : Không.

Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 48/2006/HS-ST ngày 09-05-2006 của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Bình (nay là Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình) và bản án hình sự phúc thẩm số 22/2006/HS-PT ngày 08-08-2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình đã xử phạt H 36 tháng tù về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ và phải bồi thường thiệt hại số tiền 29.930.400 đồng. H chấp hành xong hình phạt tù ngày 11-02-2009, thi hành xong án phí ngày 13-01-2010 và đến nay chưa thi hành khoản bồi thường thiệt hại.

Nhân thân:

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 02/2010/HS-ST ngày 11-01-2010 Tòa án nhân dân thành thành phố Ninh Bình xử phạt H 05 năm 06 tháng tù về tội Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; H chấp hành xong hình phạt tù ngày 18-01-2014, thi hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 28-05-2010.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23-12-2020, đến ngày 28-12-2020 chuyển tạm giam tại tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1985; nơi cư trú: Phố M, phường K, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.

2. Anh Phạm Long K, sinh năm 1988; nơi cư trú: Phố T, phường S, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1953; vắng mặt.

2. Anh V Trọng Đ, sinh năm 1990; vắng mặt.

3. Anh V Văn V, sinh năm 1987; vắng mặt.

4. Anh Điền Hữu H2, sinh năm 1985; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 22-12-2020, thực hiện kế hoạch tuần tra kiểm soát đảm bảo an ninh trật tự trong dịp lễ Noel 2020, Tổ tuần tra Công an xã P do đồng chí Nguyễn Hoàng V trưởng công an xã P và đồng chí Phạm Long K cán bộ Công an xã P tuần tra, mật phục hóa trang trên tuyến đường T thuộc xã T, thành phố N. Khi đi đến đoạn đường thuộc thôn T, xã P, Tổ tuần tra phát hiện thấy có 01 nạn nhân bị tai nạn giao thông đang nằm dưới lòng đường và có nhiều người dân đứng xung quanh, đồng chí Nguyễn Hoàng V đã gọi điện thoại báo cáo lãnh đạo Công an thành phố N và phân công đồng chí Phạm Long K đến Trạm y tế xã P báo nhân viên y tế đến sơ cứu vết thương ban đầu cho nạn nhân, sau khi đồng chí K quay lại thì đồng chí V phân công đồng chí K dùng điện thoại chụp lại hiện trường vụ tai nạn và gọi xe đưa nạn nhân đi cấp cứu, lúc này Phạm Ngọc H đang hát Karaoke tại nhà anh Điền Hữu H2 sinh năm 1985 ở thôn T, xã P thấy có vụ tai nạn giao thông ở trước cửa nhà anh H2 nên cùng anh H2 đi ra hiện trường thì gặp đồng chí V, H hỏi thì đồng chí V giới thiệu là Công an xã P đến làm việc. Khi đồng chí V phân công đồng chí K chụp ảnh hiện trường thì H chửi đồng chí K “tầm này người ta sắp chết rồi không lo mà cứu người ta còn quay cái thằng bố mày gì nữa, hôm trước mày vào nhà tao quay rồi hôm nay mày quay cái gì nữa” và lao vào dùng tay đánh vào bụng đồng chí K, đồng chí K vùng ra bỏ chạy thì H tiếp tục đuổi theo dùng tay đánh đồng chí K và đuổi theo đồng chí K về phía UBND xã P, thấy vậy anh Điền Hữu H2 chạy theo can ngăn lôi H quay lại hiện trường vụ tai nạn, H thấy đồng chí V đang đứng gần nạn nhân thì dùng tay trái gìm người đồng chí V và nói “ông là trưởng Công an xã đúng không” và dùng tay phải đấm 01 phát vào vùng bụng và 01 phát vào vùng mặt đồng chí V, đồng chí V vùng ra được và điện báo về trụ sở Công an xã P để triển khai lực lượng đến bắt giữ, lập biên bản phạm tội quả tang đối với Phạm Ngọc H về hành vi chống người thi hành công vụ. Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan CSĐT công an thành phố N đã tổ chức khám nghiệm hiện trường, trích xuất 05 đoạn video trong máy điện thoại của đồng chí Phạm Long K và máy điện thoại của anh Điền Hữu H2 quay lại hình ảnh Phạm Ngọc H chửi và đánh đồng chí V, đồng chí K để gửi đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 163 ngày 26-01-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: không phát hiện dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong 05 tệp video lưu trữ trong đĩa CD-R gửi giám định.

Quá trình điều tra vụ án, bị cáo Phạm Ngọc H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Bản cáo trạng số 17/CT-VKS ngày 29-01-2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố bị cáo Phạm Ngọc H về tội chống người thi hành công vụ theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc H phạm tội chống người thi hành công vụ.

Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc H từ 6 tháng tù đến 9 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 23-12-2020.

- Về án phí: Bị cáo H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo H đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Trong quá trình điều tra người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Hoàng V và anh Phạm Long K xác định: Khoảng 22 giờ ngày 22-12- 2020 khi các anh đang làm nhiệm vụ bảo vệ hiện trường, gọi xe cấp cứu trong vụ tai nạn giao thông xảy ra tại thôn T, xã P, thành phố N thì Phạm Ngọc H đã có hành vi chửi, đuổi đánh các anh gây cản trở cho các anh thực hiện nhiệm vụ cấp cứu nạn nhân, bảo vệ hiện trường. Sau đó lực lượng Công an xã được tăng cường đến và đã lập biên bản vi phạm về hành vi chống người thi hành công vụ của Huân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thành phố Ninh Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ ngày 22- 12-2020, tại khu vực đường T thuộc thôn T, xã P, thành phố N trong khi các anh Nguyễn Hoàng V và Phạm Long K là công an xã P đang xử lý vụ tai nạn giao thông thì Phạm Ngọc H đã có hành vi chửi, đuổi và dùng tay đánh anh V và anh K cản trở các anh thực hiện nhiệm vụ cấp cứu nạn nhân, bảo vệ hiện trường. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được anh V, anh K là Công an xã P đang thực thi công vụ nhưng bị cáo vẫn có hành vi cản trở tổ công tác thi hành công vụ. Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Phạm Ngọc H phạm tội chống người thi hành công vụ theo quy định tại khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự.

Điều 330. Tội chống ngƣời thi hành công vụ 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2......................................................................................................................

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước và gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo H phạm tội khi đang có 01 tiền án chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Bị cáo H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là lao động chính, gia đình có hoàn cảnh khó khăn (có xác nhận của chính quyền địa phương) nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về nhân thân: Bị cáo đã 2 lần bị xử lý hình sự trong đó có một lần chưa được xóa án tích. Điều đó chứng tỏ bị cáo có nhân thân xấu và là người khó giáo dục, cải tạo.

[5] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo Phạm Ngọc H một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Quá trình điều tra xác định bị cáo dùng tay đánh anh V và anh K không gây thương tích gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với anh Điền Hữu H2 là người có mặt tại hiện trường vụ tai nạn giao thông cùng với Phạm Ngọc H nhưng anh H2 chỉ can ngăn H và không có hành động lời nói gì cản trở người thi hành công vụ nên không có căn cứ để xử lý đối với anh Điền Hữu H2.

[6] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Hphải nộp 200.000 đồng án phí hình sự.

[7] Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc H phạm tội chống người thi hành công vụ.

Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc H 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ 23-12-2020.

2. Về án phí: Bị cáo Phạm Ngọc H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (01-03-2021); người có quyền, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 22/2021/HS-ST

Số hiệu:22/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về