Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 05/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BÔI, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 05/2022/HS-ST NGÀY 18/01/2022 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 18 tháng 01 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 61/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

BÙI VĂN L, sinh ngày 20 tháng 9 năm 1984 tại thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Nơi cư trú: thôn Đ, xã P, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị Xuân; có vợ là Hoàng Thị H, có 01 con sinh năm 2019;

Tiền án, Tiền sự: Không có.

Về nhân thân:

- Ngày 22/9/2004 bị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt 08 năm tù về tội “Cướp tài sản” theo bản án hình sự số: 114/HSST ngày 19/8/2004. Hiện đã chấp hành xong hình phạt.

- Ngày 20/9/2021, bị Công an xã V huyện Kim Bôi ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 06/QĐ-XPH về hành vi “Đánh nhau”, mức phạt tiền là 750.000 đồng (đã nộp phạt).

Bị cáo bị b t tạm gi t ngày 29/6/2021 đến ngày 08/7/2021 được tại ngoại. Nay có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền L, nghĩa vụ liên quan: Công an xã V, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình.

Địa chỉ trụ sở: xóm Chiềng, xã V, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình.

Người đại diện: Ông Bùi Mạnh H, sinh năm 1988 – Trưởng công an xã V. Có đơn đề nghị xét xử v ng mặt.

- Người làm chứng:

+ Ông Bùi Văn L2, sinh năm 1993. Nơi cư trú: xóm Chanh, xã V, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. V ng mặt

+ Ông Bùi Mạnh H, sinh năm 1988. Nơi cư trú: xóm Dạnh, xã Đông B, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. Có đơn đề nghị xét xử v ng mặt.

+Ông Trần Văn T, sinh năm 1997. Nơi cư trú: khu Đoàn Kết, thị trấn Bo, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 28/6/2021, Công an xã V huyện Kim Bôi nhận được đơn trình báo việc xô xát tại quán Karaoke Nguyễn Thủy, địa chỉ: xóm Sống, xã V, huyện Kim Bôi của anh Bùi Văn A, sinh năm: 1988, trú tại: xóm Đầm Sáng, xã Xuân Thủy, huyện Kim Bôi. Một người đàn ông lạ mặt dùng tay đấm một cái vào mũi anh Bùi Đức L1, sinh năm: 1988, trú tại: Khu Nội Sung, thị trấn Bo, huyện Kim Bôi.

Sau khi tiếp nhận đơn trình báo, vào sáng ngày 29/6/2021 đồng chí Bùi Mạnh H - Trưởng Công an xã V đã phân công các đồng chí Công an xã chính quy là Trần Văn T và Bùi Văn L2 T hành nhiệm kiểm tra, xác minh tin báo. Qua xác minh Công an xã V xác định người đánh anh L1 là Bùi Văn L, sinh năm: 1984, HKTT: Thôn Đại Lai 2, xã P, TP Thái Bình, tỉnh Thái Bình (hiện tại L đang sống và làm công nhân xây dựng tại: Khu Mớ Đá,thị trấn Bo, huyện Kim Bôi). Được biết L là bạn cùng đi hát với anh D và anh L4, do L không đăng ký tạm trú tại địa phương nên đồng chí L2 và đồng chí T đã đề nghị anh D và anh L4 gọi điện thoại cho L đến trụ sở Công an xã V để tiến hành làm việc về nội dung đánh anh L1.

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 29/6/2021, L đến trụ sở Công an xã V để làm việc. Khi đến làm việc, L mặc quần đùi, áo cộc tay và không đeo khẩu trang. Thấy vậy đồng chí T t trong phòng làm việc đi ra đưa cho L khẩu trang để đeo, đồng chí T có trao đổi với L lý do mời lên làm việc và được L trả lời về thông tin cá nhân của L. Sau đó đồng chí T nói: “Có phải anh đánh anh Bùi Đức L1 tại quán Karaoke Nguyễn Thủy ngày hôm qua không”, L trả lời: “Đúng, em đánh nó đấy, nó láo thì phải đánh”, sau đó L có kể lại sơ qua việc đánh anh L1 giống như anh D và anh L4 đã trình bày trước đó. Do chưa có phòng để làm việc với L vì đang ghi lời khai anh D và anh L4 nên đồng chí T đã yêu cầu L đợi ngoài hành lang, khi nào làm việc xong với anh L và anh D thì sẽ mời L vào phòng làm việc. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, khi làm việc xong thì anh D và anh L đi về, đồng chí T có mời L đi vào phòng để làm việc. Tại đây L ngồi xuống ghế đối diện đồng chí T, ở gi a hai người có bàn làm việc. Đồng chí T có lấy biên bản ghi lời khai, bản tường trình và bút ra để làm việc với L. Đồng chí T hỏi L về tình trạng sức khỏe của bản thân L có làm việc được với Cơ quan Công an xã không, L nói “Làm được”. Đồng chí T đưa bản tường trình và bút cho L yêu cầu L trình bày lại toàn bộ sự việc đánh anh L1 ngày 28/6/2021 thì L chỉ cầm bút lên nhưng không viết gì và có thái độ khó chịu, không phối hợp làm việc. Đồng chí T liền hỏi L: “Sao anh không viết”, L nói: “Viết gì”, đồng chí T nói: “Viết lại sự việc đánh nhau ngày hôm qua”, L nói “Viết gì, không nhớ gì hết”, đồng chí T nói “Sao lúc nãy anh nhớ mà giờ lại không nhớ?”. Lúc này L không nói gì mà đứng dậy đồng thời dùng tay phải đấm về phía đồng chí T một cái nhưng không trúng do đồng chí T tránh được, thấy vậy đồng chí T lùi về phía cửa ra vào phòng làm việc. Liền sau đó, L cầm cốc nước bằng thủy tinh đang đặt trên mặt bàn làm việc đưa lên tự đập vào đầu mình một cái nhưng cốc không vỡ sau đó ném cốc thủy tinh xuống nền nhà làm cốc thủy tinh vỡ nhiều mảnh. Tiếp theo, L cúi xuống cầm một mảnh thủy tinh lên chỉ về phía đồng chí T nói “Chúng mày muốn gì”, sau đó tự đưa mảnh thủy tinh dọa cứa vào tay còn lại của mình. Thấy vậy, đồng chí L2 đang đứng phía bên trong phòng làm việc và đồng chí T đang đứng gần cửa ra vào phòng đã yêu cầu L bỏ mảnh thủy tinh xuống và chấp hành yêu cầu làm việc thì một lúc sau L đã bỏ mảnh thủy tinh xuống nền nhà rồi ôm đầu nói: “Chúng mày đánh tao, chúng mày đập tao...”. Do nghe thấy ồn ào nên đồng chí H t phòng làm việc bên cạnh đi sang thấy L đang ngồi ôm đầu kêu đau thì đồng chí H có hỏi L bị làm sao, L nói bị đồng chí T đánh, bị đồng chí T dùng cốc nước đập vào đầu và L yêu cầu được đưa đi khám ở bệnh viện. Do lúc đó L đang có hành vi chống đối, không hợp tác làm việc và vu khống cho đồng chí T đánh L nên không được chấp nhận lời đề nghị. L tiếp tục nằm xuống ghế luôn miệng nói “Tôi bị đánh, bị đau đầu, muốn đi khám...”. Thấy vậy, các đồng chí Công an xã V phải kết thúc nhiệm vụ, mời anh Hoàng Thế Trung, sinh năm: 1986, trú tại: Xóm Chanh xã V huyện Kim Bôi là người dân đang làm việc ở phòng bên cạnh sang để chứng kiến việc L đang nằm trên ghế, không chấp hành yêu cầu hợp tác làm việc và có hành vi chống đối, vu khống bị Công an đánh. Đồng chí T đã L1 biên bản làm việc đối với hành vi của L, đồng thời Công an xã V mời Trạm trưởng Trạm y tế xã V sang T hành xem xét dấu vết trên thân thể cho L. Nhận thấy vụ việc có dấu hiệu phạm tội chống người thi hành công vụ, đồng chí Bùi Mạnh H - Trưởng Công an xã V đã báo cáo vụ việc với Lãnh đạo Công an huyện Kim Bôi.

Ngay sau khi tiếp nhận thông tin vụ việc tại Công an xã V, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Bôi ban hành Lệnh gi người trong trường hợp khẩn cấp đối với Bùi Văn L, dẫn giải L về trụ sở để làm việc và L1 biên ban kiểm tra nồng độ cồn bằng phương pháp đo khí thở. Kết quả: 0,084 miligam/1 lít khí thở.

Các vật chứng thu giữ được khi bắt quả tang gồm:

- 01 (một) cốc thủy tinh đã vỡ thành nhiều mảnh, số lượng và hình dạng mảnh vỡ không xác định được bọc trong tờ giấy tr ng và niêm phong trong túi ni lông niêm phong chuyên dụng, mã số NS1 2000497 có ch ký xác nhận của các thành phần tham gia.

Vật chứng đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Bôi, bảo quản trong quá trình giải quyết vụ án.

Về TNDS : Anh Trần Văn Tvà Công an xã V không yêu cầu bị bồi thường về dân sự.

Tại Bản cáo trạng số: 53/CT – VKS, ngày 29/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình đã truy tố bị cáo Bùi Văn L về tội “ Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 BLHS.

Tại phiên tòa;

Bị cáo Bùi Văn L th a nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bôi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử gi nguyên quyết định truy tố, tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Bùi Văn L phạm tội “ Chống người thi hành công vụ”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Bùi Văn L t 06 - 09 tháng tù giam.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Trách nhiệm dân sự: không xem xét, giải quyết.

- Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) cốc thủy tinh đã vỡ thành nhiều mảnh, số lượng và hình dạng mảnh vỡ không xác định được bọc trong tờ giấy trắng và niêm phong trong túi ni lông niêm phong chuyên dụng, mã số NS1 2000497 có ch ký xác nhận của các thành phần tham gia.

* Các ý kiến tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức hành vi chống người thi hành công vụ của mình là vi phạm pháp luật. Xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức hình phạt nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Bôi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bôi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, nh ng người tham gia tố tụng không có khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định tố tụng. Do đó các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng và người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo th a nhận đã có hành vi dùng tay đấm đồng chí T (nhưng không trúng), đập vỡ chiếc cốc thủy tinh, gây rối, chống đối, không hợp tác lấy lời khai khiến Công an xã chính quy không thực hiện được công việc, phải kết thúc nhiệm vụ được giao để đảm bảo an ninh trật tự. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của nh ng người làm chứng; biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường cũng như các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Bùi Văn L đã phạm tội chống người thi hành công vụ. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bôi đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo Bùi Văn L là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự, trị an ở địa phương, đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước, cản trở các cán bộ Công an xã V thi hành công vụ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Vì vậy cần có mức án nghiêm kh c cách ly bị cáo ngoài đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục cải tạo bị cáo và răn đe phòng ng a chung.

Khi lượng hình xét thấy: Bị cáo không có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng bị cáo có nhân thân xấu, năm 2004 đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xử phạt 08 năm tù về tội Cướp tài sản nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên trong quá trình điều cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có ném chiếc cốc thủy tinh xuống nèn nhà làm vỡ thành nhiều mảnh. Đây là tài sản của Công an xã V. Tuy nhiên Công an xã V và anh Trần Văn Tkhông yêu cầu bị cáo bồi thường dân sự nên không xem xét giải quyết.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Xét thấy 01 (một) cốc thủy tinh đã vỡ thành nhiều mảnh không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

[7] Về án phí: Bị cáo Bùi Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn L phạm tội : Chống người thi hành công vụ.

2. Xử phạt: Căn cứ vào khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt Bùi Văn L 06 (sáu) tháng tù, thời hạn thụ hình được tính t ngày bị cáo bị b t đi thi hành án tr đi 10 (mười) ngày tạm gi , tạm giam t ngày 29/6/2021 đến ngày 08/7/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) cốc thủy tinh đã vỡ thành nhiều mảnh, số lượng và hình dạng mảnh vỡ không xác định được bọc trong tờ giấy tr ng và niêm phong trong túi ni lông niêm phong chuyên dụng, mã số NS1 2000497 có ch ký xác nhận của các thành phần tham gia.

( Toàn bộ các vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/11/2021 giữa Công an huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình).

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo Bùi Văn L phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ vào các Điều 331 và Điều 333 của BLTTHS: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể t ngày tuyên án. Cùng thời hạn trên kể t ngày nhận được bản án người có quyền L và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 05/2022/HS-ST

Số hiệu:05/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bôi - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về