Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 01/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 01/2023/HS-ST NGÀY 13/01/2023 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 13/01/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2022/TLST-HS ngày 29/12/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2022/QĐXXST-HS ngày 30/12/2022 đối với bị cáo:

Phạm Văn Q, sinh năm 1987; STQ tại: thôn H, xã N, huyện N, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn A, sinh năm 1969; con bà Vũ Thị H, sinh năm 1967; chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân:

- Ngày 11/12/2014, bị Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/6/2014. Đã chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 08/02/2016.

- Ngày 13/3/2019, bị Tòa án nhân dân tỉnh T xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/6/2018; đã chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 13/6/2019.

- Ngày 06/3/2018, bị Công an huyện N xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000 đồng về hành vi “Cố ý gây thương tích”; đã nộp phạt ngày 07/3/2018.

- Ngày 20/7/2021 bị Chủ tịch UBND xã N, huyện N áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời hạn 03 tháng kể từ ngày 20/7/2021 đến ngày 20/10/2021, do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đã chấp hành xong ngày 20/10/2021.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 18/10/2022 đến nay, có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ A1h Mai Văn T - Sinh năm 1993; địa chỉ: Công an xã N, huyện N, tỉnh T (vắng mặt).

2/ A1h Lê Hùng C - Sinh năm: 1997; địa chỉ: Công an huyện N, tỉnh T; (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng).

3/ A1h Mai Đình H - Sinh năm: 1987; địa chỉ: Công an xã N, huyện N, tỉnh T (vắng mặt).

* Người làm chứng:

1/ A1h Lê Văn T - Sinh năm 1990; địa chỉ: Công an huyện N, tỉnh T; (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng).

2/ A1h Hà Ngọc L - Sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn H, xã N, huyện N, tỉnh T; (vắng mặt).

3/ A1h Phạm Văn Tr - Sinh năm 1966; địa chỉ: Thôn H, xã N, huyện N, tỉnh T; (vắng mặt).

4/ A1h Nguyễn Văn L1 - Sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn Tri Thiện 2, xã N, huyện N, tỉnh T; (vắng mặt)..

5/ A1h Mai Văn N - Sinh năm 1975; địa chỉ: Thôn H, xã N, huyện N, tỉnh T; (vắng mặt).

6/ A1h Phạm Văn A1 - Sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn H, xã N, huyện N, tỉnh T; (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thực hiện Thông báo số 119/TB-CAT-PV01 ngày 12/10/2022 của Thủ trưởng Cơ quan CSĐT Công an tỉnh T về việc xác định đối tượng đấu tranh chuyên án chung giai đoạn 2 và hướng dẫn điều tra cơ bản đối tượng nghiện nhằm xác định nguồn ma túy; công văn số 720/CANS ngày 07/10/2022 của trưởng Công an huyện N về việc tiếp tục thực hiện công tác điều tra cơ bản đối với tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về ma túy trên địa bàn.

Sau hội nghị của Công an huyện N, Trưởng Công an xã N đã lập kế hoạch kiểm tra xác minh, phân công cán bộ trực tiếp xuống thôn để tiến hành rà soát các đối tượng nghiện, nghi nghiện, sử dụng trái phép chất ma túy trên địa bàn xã nhằm xác định nguồn ma túy.

Ngày 18/10/2022, tại buổi họp giao ban công tác trong ngày Trưởng Công an xã N phân công anh Mai Văn T trực tiếp đến nhà ông Phạm Văn A1 chuyển giấy mời đối với công dân Phạm Văn Q (con trai, là người có tiền sử sử dụng ma túy) đến công an xã làm việc.

Khoảng 08 giờ 30 phút cùng ngày, anh Mai Văn T mặc quân phục Công an nhân dân, điều khiển xe mô tô đến nhà ông A1. Lúc này Q trong nhà nhìn thất người mặc trang phục Công an, nghĩ rằng anh T đến bắt mình nên Q chạy ra dùng tay đấm nhiều cái vào người anh T và nói “chúng mày đến đây làm chi”. A1h T xuống xe, trả lời “Đây là công an đang đi làm nhiệm vụ” thì Q đấm vào mặt anh T làm T và xe bị ngã xuống đường. A1h T đứng dậy thì Q nhặt 02 mảnh gạch bi ở bên đường ném trúng vào mũ bảo hiểm anh T đang đội trên đầu và mu bàn tay phải của anh T. Bị Q tấn công bất ngờ, anh T phải để xe mô tô lại chạy ra ngoài đầu đường, gọi điện thoại báo cáo Trưởng Công an xã tăng cường lực lượng hỗ trợ. Đối với Q, biết anh T bỏ chạy nhưng vẫn quay vào trong sân nhà mình lấy 01 mũi khoan dài 65cm, phần cán dài 53cm, có hình trụ tròn, được quấn kín bằng băng dán màu đen, chuôi bọc bằng kim loại màu bạc, có đường kính 1,5cm; phần mũi khoan làm bằng kim loại, dài 12cm, có hình dạng xoăn ốc, mũi khoan rộng 02cm, dày 02mm, rồi chạy ra đầu ngõ đuổi để đâm anh T. Thấy Q cầm thanh kim loại nhọn đầu, tấn công mình nên anh T chạy vào nhà anh Hà Văn L ở thôn H, xã N, đóng của lại. Q đứng bên ngoài giật mở cửa để đánh anh T nhưng không mở được cửa nên Q bỏ về nhà mình.

Nhận được báo cáo của anh T qua điện thoại, Trưởng Công an xã N là anh Mai Đình H đã gọi điện thoại báo cáo Lãnh đạo Công an huyện xin ý kiến và được Lãnh đạo Công an huyện N cử anh Lê Văn T và Lê Hùng C là cán bộ điều tra đội MT-KT-MT phối hợp cùng Công an xã N đến nhà Q để xử lý tình hình, mời Q đến trụ sở Công an xã để làm việc. Khi anh H, anh C và anh T đi đến cổng ngõ nhà Q đứng nói chuyện, giải thích với bố Q là ông Nguyễn Văn A1. Lúc này, Q đang trong nhà bà nội (bên cạnh nhà Q) nhìn thấy 03 người mặc trang phục công an. Q không nói gì mà lẳng lặng đi vào gian phòng thờ nhà bà Câng lấy một con dao phay, dài 40cm, phần lưỡi dao làm bằng kim loại dài 27cm, phần rộng nhất của lưỡi dao 07cm; phần cán dao làm bằng gỗ (hình trụ tròn) hai đầu bọc kim loại màu sáng trắng, có chiều dài 27cm, đường kính 02cm, giấu trong chiếc nón lá đi ra ngoài. A1h H nhìn thấy Q đang cầm dao trên tay đi ra khu vực mọi người đang nói chuyện. Nhìn thấy Q, anh H lên tiếng giải thích, động viên và mời Q về trụ sở Công an xã để làm việc. Q cho rằng mình là người nghiện ma túy, đã nhiều lần bị xử lý nên hôm nay bị Công an đến bắt. Vì vậy, Q thả nón lá xuống đất và cầm dao chém nhiều nhát về phía anh H nhưng anh H tránh được và cùng với anh T, anh C khống chế Q thì Q cắn vào cổ tay phải của anh C gây chảy máu.

Sau đó lực lượng Công an và quần chúng nhân dân thôn H, xã N đã khống chế được Q đưa về UBND xã N, lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang vào lúc 09 giờ 30 phút ngày 18/10/2022.

Cơ quan CSĐT Công an huyện N đã tiến hành xem xét dấu vết thân thể của anh T và anh C theo quy định.

- Tại Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể anh Mai Văn T lúc 14 giờ 30 phút ngày 18/10/2022 tại Trạm y tế thị Trấn N thể hiện: sống mũi có vết bầm tím, sưng nề, kích thước (5 x 3)cm; mu bàn tay phải giữa ngón cái và ngón trỏ có vết bầm tím xây xước da, kích thước (3,5 x 0,5)cm.

- Tại Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể anh Lê Hùng C lúc 14 giờ 55 phút ngày 18/10/2022 tại Trạm y tế thị Trấn N thể hiện: mặt trên cổ tay phải có vết bầm tụ máu, kích thước (6,5 x 4)cm, ngay phía trên vết bị trầy xước da, chảy máu, kích thước (1 x 1,5)cm.

Ngày 25/10/2022 Cơ quan CSĐT Công an huyện N đã ra Quyết định số 107, 108/QĐ-TCGĐ, trưng cầu Tr tâm giám định pháp y tỉnh T giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Lê Hùng C và Mai Văn T.

- Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 1131/2022/TTPY ngày 04/11/2022 của Tr tâm giám định pháp y tỉnh T đối với anh Lê Hùng C thể hiện: Sẹo vết thương phần mềm vùng 1/3 dưới cẳng tay phải ngang mức vị trí mặt sau sát cổ tay phải; kích thước sẹo trung bình: 02% (Thông tư 22/2019/TT- BYT; Bảng 1; chương 8; Nguyên tắc tính tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do tổn thương phần mềm; mục I;2).

Tại thời điểm giám định pháp y về thương tích: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với Lê Hùng C là 02% (H phần trăm).

- Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 1132/2022/TTPY ngày 04/11/2022 của Tr tâm giám định pháp y tỉnh T đối với anh Mai Văn T thể hiện: Vết biến đổi rối loạn sắc tố da vùng mặt ngang mức giữa tháp mũi lệch bên trái: 01% (Thông tư 22/2019/TT-BYT; Bảng 1; chương 8; mục V).

Sẹo vết thương phần mềm vùng ô mô cái bàn tay phải; kích thước sẹo nhỏ: 01% (Thông tư 22/2019/TT-BYT; Bảng 1; chương 8; Nguyên tắc tính tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do tổn thương phần mềm; mục I;1).

Tại thời điểm giám định pháp y về thương tích: Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với Mai Văn T được tính theo phương pháp xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể (Cộng theo phương pháp xác định tỷ lệ % TTCT quy định tại Điều 4 - Thông tư 22/2019/TT-BYT ngày 28/9/2019 của Bộ Y Tế) là 02% (H phần trăm).

Cơ quan CSĐT Công an huyện N cũng đã trích xuất dữ liệu camera an ninh của UBND xã N, huyện N ghi lại hình ảnh Q cầm đoạn sắt đuổi theo anh T và lưu trong 01 USB Kingston, màu xanh, có dung lượng 04GB. Tại Bản kết luận giám định số 3946/KL-KTHS ngày 10/11/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: không phát hiện dấu hiệu chỉnh sửa, cắt ghép nội dung hình ảnh trong 01 tệp video của 01 USB gửi giám định. Trích xuất 05 hình ảnh trong tệp video gửi giám định- Thể hiện trong phụ lục.

Sau khi có kết quả giám định thương tích của anh Lê Hùng C và anh T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã thông báo cho bị can Phạm Văn Q, người bị hại là anh Mai Văn T và anh Lê Hùng C biết và đồng ý với kết quả giám định, đồng thời anh T và anh C có đơn đề nghị không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự “Cố ý gây thương tích”.

- Về trách nhiệm dân sự: A1h T bị Q dùng đá ném vào tay, dùng tay đấm vào mặt; anh C bị Q cắn vào tay gây thương tích nhưng do thương tích nhẹ nên anh T và anh C không yêu cầu Q phải bồi thường.

Vật chứng của vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N đã thu giữ 01 con dao phay bằng kim loại dài 40cm; 01 mũi khoan bằng kim loại, dạng hình xoắn, dài 65cm và 01 nón lá, đường kính 42cm là những đồ vật của Phạm Văn Q sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, hiện đang được bảo quản, chờ xử lý theo quy định.

Đối với chiếc USB ghi lại hình ảnh Q cầm đoạn sắt đuổi theo anh T được chuyển kèm theo hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 25/CT-VKSNS-TA, ngày 12/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Phạm Văn Q về tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 BLHS.

Tại phiên toà, trong phần luận tội, đại diện VKSND huyện N vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Phạm Văn Q như cáo trạng và đề nghị HĐXX áp dụng: khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Văn Q từ 15 đến 18 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 18/10/2022.

Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh T, anh C không yêu cầu gì đối với bị cáo nên miễn xét.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS: tịch thu tiêu hủy: 01 thùng cát tông, kích thước 27 x22,5 x78 cm, có dòng chữ “SUNHOUSE”, bên trong có:

- 01 dao (dạng dao phay) dài 40cm, phần lưỡi dao làm bằng kim loại dài 27 cm, phần rộng nhất của lưỡi dao 07cm; phần cán dao làm bằng gỗ (hình trụ tròn) hai đầu bọc kim loại màu sáng trắng, dài 13cm, đường kính 02cm, đã qua sử dụng.

- 01 mũi khoan dài 65cm, phần cán dài 53cm, hình trụ tròn, được quấn kín bằng băng dán màu đen, chuôi được bọc bằng kim loại màu bạc, đường kính 1,5cm; phần mũi khoan được làm bằng kim loại, dài 12cm, có hình dạng xoăn ốc, mũi khoan rộng 02cm, dày 02mm, đã qua sử dụng.

- 01 nón lá có đường kính 42cm, đã qua sử dụng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với VKS, bị cáo Phạm Văn Q đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn Q đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với những tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ, phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng về thời gian, địa điểm và hành vi phạm tội của bị cáo, HĐXX đủ cơ sở kết luận: Ngày 18/10/2022, anh Mai Văn T công an xã N thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Trưởng Công an xã N, anh T mặc quân phục công an nhân dân và sử dụng xe máy công vụ đến nhà Phạm Văn Q mời lên xã để làm việc, nhằm xác định nguồn gốc ma túy. Tuy nhiên, Q đã dùng tay đấm nhiều cái vào người, vào mặt anh T, tiếp theo Q nhặt 02 mảnh gạch bi bên đường ném trúng vào mũ bảo hiểm anh T đội đầu và mu bàn tay phải, hậu quả gây cho anh T sống mũi có vết bầm tím, sưng nề, kích thước (5 x 3)cm; mu bàn tay phải giữa ngón cái và ngón trỏ có vết bầm tím xây xước da, kích thước (3,5 x 0,5)cm. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với Mai Văn T được tính theo phương pháp xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 02% (H phần trăm).

Để tăng cường lực lượng phối hợp cùng công an xã N đến nhà Q xử lý tình hình. Q nhìn thấy 03 người mặc sắc phục công an là anh H, anh T, anh C đến nhà nên Q tiếp tục có hành vi dùng dao phay chém nhiều nhát về phía anh H, anh T, anh C. Bị các anh khống chế, Q đã cắn vào cổ tay phải của anh C gây chảy máu, hậu quả: mặt trên cổ tay phải có vết bầm tụ máu, kích thước (6,5 x 4)cm, ngay phía trên vết bị trầy xước da, chảy máu, kích thước (1 x 1,5)cm.Tỷ lệ tổn thương là 02%.

Hành vi gây tổn hại sức khỏe cho anh T, anh C, với tỷ lệ tổn thương đều là 0,2%, anh T, anh C đều không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với Q về tội “Cố ý gây thương tích”. Tuy nhiên, hành vi đó lại gây cản trở việc thi hành công vụ của anh Mai Văn T, anh Mai Đình H, anh Lê Hùng C. Như vậy, cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Phạm Văn Q về tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 của BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo: Đây là vụ án có tính chất ít nghiêm trọng, nhưng với thái độ xem thường pháp luật, bị cáo đã dùng tay đấm, dùng miệng cắn và gây thương tích cho anh T là 02%; anh C là 02%. Bị cáo gây thương tích cho anh T, anh C đều không bị các anh yêu cầu khởi tố về hình sự về tội cố ý gây thương tích, nhưng hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến hoạt động công việc của lực lượng công an được giao thực hiện nhiệm vụ, làm ảnh hưởng đến công tác quản lý Nhà nước, xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự an toàn tại địa phương, đồng thời còn xâm phạm đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của những người đang thi hành công vụ. Bị cáo từng bị Tòa án nhân dân huyện N và Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử về tội “cố ý gây thương tích” và “cố ý làm hư hỏng tài sản , tuy đã được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần thiết phải áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội đối với bị cáo.

[3] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Nhân thân: bị cáo có nhân thân xấu - Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tỉnh tiết giảm nhẹ TNHS: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình. Cho nên, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra anh T, anh C không yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên miễn xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1;

điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS: tịch thu tiêu hủy: 01 thùng cát tông, kích thước 27 x22,5 x78 cm, có dòng chữ “SUNHOUSE”, bên trong có:

- 01 dao (dạng dao phay) dài 40cm, phần lưỡi dao làm bằng kim loại dài 27 cm, phần rộng nhất của lưỡi dao 07cm; phần cán dao làm bằng gỗ (hình trụ tròn) hai đầu bọc kim loại màu sáng trắng, dài 13cm, đường kính 02cm, đã qua sử dụng.

- 01 mũi khoan dài 65cm, phần cán dài 53cm, hình trụ tròn, được quấn kín bằng băng dán màu đen, chuôi được bọc bằng kim loại màu bạc, đường kính 1,5cm; phần mũi khoan được làm bằng kim loại, dài 12cm, có hình dạng xoăn ốc, mũi khoan rộng 02cm, dày 02mm, đã qua sử dụng.

- 01 nón lá có đường kính 42cm, đã qua sử dụng.

[6] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào: khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự;

* Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn Q phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

* Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn Q 17 (Mười bảy) tháng tù,thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (18/10/2022).

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS: tịch thu tiêu hủy: 01 thùng cát tông, kích thước 27 x22,5 x78 cm, có dòng chữ “SUNHOUSE”, bên trong có:

- 01 dao (dạng dao phay) dài 40cm, phần lưỡi dao làm bằng kim loại dài 27 cm, phần rộng nhất của lưỡi dao 07cm; phần cán dao làm bằng gỗ (hình trụ tròn) hai đầu bọc kim loại màu sáng trắng, dài 13cm, đường kính 02cm, đã qua sử dụng.

- 01 mũi khoan dài 65cm, phần cán dài 53cm, hình trụ tròn, được quấn kín bằng băng dán màu đen, chuôi được bọc bằng kim loại màu bạc, đường kính 1,5cm; phần mũi khoan được làm bằng kim loại, dài 12cm, có hình dạng xoăn ốc, mũi khoan rộng 02cm, dày 02mm, đã qua sử dụng.

- 01 nón lá có đường kính 42cm, đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 29/12/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, tỉnh T).

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Buộc bị cáo Phạm Văn Q phải chịu 200.000đ (H trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 BLTTHS, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 01/2023/HS-ST

Số hiệu:01/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Ngày 18/10/2022, anh Mai Văn T, công an xã Nga Sơn, đến nhà Phạm Văn Q để mời Q lên làm việc về vấn đề sử dụng trái phép chất ma túy. Q đã tấn công anh T bằng cách đấm, ném đá trúng mặt và tay anh T, gây thương tích nhẹ. Sau đó, anh Lê Hùng C cùng lực lượng khác đến hỗ trợ thì Q dùng dao chém về phía họ và cắn vào tay anh C gây thương tích.
Đoạn 2:
Cơ quan điều tra đã tiến hành giám định thương tích cho anh T và anh C, với tỷ lệ tổn thương cơ thể lần lượt là 2% và 2%. Mặc dù anh T và anh C không yêu cầu khởi tố về tội "Cố ý gây thương tích", nhưng hành vi của Q đã cản trở việc thi hành công vụ của họ.
Đoạn 3:
Viện Kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn đã truy tố Q về tội "Chống người thi hành công vụ" theo khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Q thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử nhận định hành vi của Q là ít nghiêm trọng, nhưng thể hiện thái độ xem thường pháp luật và cần áp dụng hình phạt tương xứng.
Đoạn 4:
Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn tuyên phạt Q 17 tháng tù về tội "Chống người thi hành công vụ". Các vật chứng là dao, mũi khoan và nón lá được tịch thu tiêu hủy. Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong vòng 15 ngày.