Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 63/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 63/2023/HS-ST NGÀY 21/12/2023 VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ

Ngày 21 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tịnh Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 58/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2023/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Phạm Quỳnh D, sinh ngày 10-10-1982 tại T, Phú Thọ; nơi đăng ký thường trú: khu H, xà H, huyện T, tỉnh Phú Thọ; chỗ ở hiện nay: tổ B, ấp B, xã B, huyện K, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn H (chết) và Vũ Thị T; vợ là Hoàng Thị L, sinh năm 1983 và có 02 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2013; anh chị em ruột có 02 người, bị cáo là người thứ nhất.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 13-5-2023, đến ngày 22-5-2023 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa v liên quan đến vụ án:

1. Bà Đỗ Thị Thanh T1, sinh năm 1969, nơi cư trú: ấp G, xã L, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

2. Bà Đỗ Thị Thanh V, sinh năm 1977, nơi cư trú: ấp G, xã L, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

3. Bà Huỳnh Thị Kim C1, sinh năm 1965, nơi cư trú: tổ G, ấp G, xã L, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

4. Bà Huỳnh Thị N, sinh năm 1985, nơi cư trú: tổ A, khóm A, thị trấn T, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

5. Ông Huỳnh Văn T2, sinh năm 1982, nơi cư trú: tổ A, ấp T, xã C, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

6. Bà Lê Kim T3, sinh năm 1947, nơi cư trú: số B, ấp G, xã L, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

7. Bà Lê Thị Ngọc D1, sinh năm 1988, nơi cư trú: khóm C, thị trấn T, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

8. Bà Lý Thị T4, sinh năm 1975, nơi cư trú: khóm B, thị trấn T, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

9. Bà Neàng Chanh T5, sinh năm 1999, nơi cư trú: tổ A, ấp A, xã A, thị xã T, tỉnh An Giang; có mặt.

10. Bà Neáng Kim S, sinh năm 1990, nơi cư trú: tổ C, khóm F, thị trấn T, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

11. Bà Neàng Ô, sinh năm 1975, nơi cư trú: tổ C, ấp T, xã T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

12. Bà Nguyễn Thị Kim C2, sinh năm 1985, nơi cư trú: khóm X, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

13. Bà Nguyễn Thị T6, sinh năm 1980, nơi cư trú: khóm A, thị trấn T, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

14. Bà Lê Thị Thanh K, sinh năm 1979, nơi cư trú: ấp T, xã C, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

15. Bà Sơn Anh Đ, sinh năm 1970, nơi cư trú: tổ F, ấp A, xã A, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

16. Ông Phạm Văn T7, sinh năm 1977, nơi cư trú: khóm X, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

17. Bà Võ Mỹ T8, sinh năm 1964, nơi cư trú: khóm X, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

18. Ông Nguyễn Đức C3, sinh năm 1984, nơi cư trú: tổ A, ấp V, xã V, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

19. Ông Trần Văn D2, sinh năm 1980, nơi cư trú: ấp V, xã V, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

20. Ông Trương Tấn H1, sinh năm 1971, nơi cư trú: tổ A, ấp V, xã V, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

21. Bà Lương Thị Kim L1, sinh năm 1963, nơi cư trú: tổ A, ấp V, xã V, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

22. Bà Trần Thị M, sinh năm 1978, nơi cư trú: khóm T, phường N, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

23. Bà Nguyễn Thị Cẩm N1, sinh năm 1975, nơi cư trú: tổ B, ấp V, xã V, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

24. Bà Trần Thị S1, sinh năm 1952, nơi cư trú: tổ A, ấp V, xã V, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

25. Bà Trương Ngọc H2, sinh năm 1982, nơi cư trú: tổ B, khóm X, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

26. Bà Trần Thị Ngọc M1, sinh năm 1967, nơi cư trú: ấp V, xã V, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

27. Ông Trần Văn T9, sinh năm 1987, nơi cư trú: tổ A, ấp A, xã L, huyện T, tỉnh An Giang; có mặt.

28. Bà Tạ Thị Bé H3, sinh năm 1989, nơi cư trú: tổ A, khóm P phường A, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

29. Ông Phạm Thanh T10, sinh năm 1976, nơi cư trú: khóm S, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

30. Ông Nguyễn Văn T11, sinh năm 1974, nơi cư trú: tổ H, khóm X, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

31. Ông Nguyễn Văn N2, sinh năm 1988, nơi cư trú: khóm X, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

32. Bà Nguyễn Thị Thúy D3, sinh năm 1982, nơi cư trú: tổ F, khóm N, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

33. Bà Nguyễn Thị T12, sinh năm 1977, nơi cư trú: ấp A, thị trấn B, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

34. Bà Nguyễn Thị Á, sinh năm 1962, nơi cư trú: ấp A, xã C, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

35. Ông Lê Văn S2, sinh năm 1986, nơi cư trú: tổ A, khóm X, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

36. Ông Huỳnh Văn H4, sinh năm 1972, nơi cư trú: tổ D, khóm T, phường N, thị xã T, tỉnh A; vắng mặt.

37. Bà Huỳnh Thị H5, sinh năm 1971, nơi cư trú: ấp H, xã H, huyện P, tỉnh An Giang; vắng mặt.

38. Bà Hà Ngọc T13, sinh năm 1986, nơi cư trú: khóm T, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

39. Bà Cao Thị Ngọc Y, sinh năm 1965, nơi cư trú: ấp T, xã T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

40. Ông Nguyễn Văn Ú, sinh năm 1984, nơi cư trú: khóm N, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

41. Bà Nguyễn Kim X, sinh năm 1979, nơi cư trú: ấp G, xã L, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

42. Ông Phan Văn P, sinh năm 1986, nơi cư trú: tổ D, khóm X, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

43. Bà Trần Thị H6, sinh năm 1984, nơi cư trú: khóm X, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

44. Ông Nguyễn Văn T14, sinh năm 1985, nơi cư trú: tổ I, khóm X, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

45. Bà Lâm Thị Ngọc D4, sinh năm 1996, nơi cư trú: tổ I, khóm X, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

46. Ông Phạm Văn X1, sinh năm 1971, nơi cư trú: tổ A, ấp N, xã L, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

47. Ông Nguyễn Trí H7, sinh năm 1978, nơi cư trú: tổ A, khóm X, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

48. Ông Cao Đình Minh H8, sinh năm 1985, nơi cư trú: tổ A, khóm X, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

49. Ông Châu Thanh Đ1, sinh năm 1983, nơi cư trú: ấp N, xã A, huyện T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

50. Ông Phạm Phương T15, sinh năm 1992, nơi cư trú: tổ H, khóm T, phường N, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

51. Bà Phạm Thị H9, sinh năm 1990, nơi cư trú: tổ I, khóm V, phường N, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

52. Bà Lê Ngọc D5, sinh năm 1980, nơi cư trú: tổ B, ấp V, xã V, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

53. Bà Phạm Thị Thúy K1, sinh năm 1985, nơi cư trú: tổ F, ấp M, xã V, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

54. Bà Phan Thị Tuyết N3, sinh năm 1962, nơi cư trú: tổ B, ấp A, xã A, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

55. Ông Nguyễn Toàn L2, sinh năm 1987, nơi cư trú: tổ E, khóm X, phường T, thị xã T, tỉnh An Giang; vắng mặt.

56. Ông Đinh Bá T16, sinh năm 1984, nơi cư trú: số 447/16, T, phường A, quận G, thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 10-5-2023, tại khu vực tổ A, ấp V, xã V, thị xã T, lực lượng Cảnh sát hình sự - Công an thị xã T phối hợp với Công an xã V phát hiện Phạm Quỳnh D và Đinh Văn T17 điều khiển xe mô tô biển số 59V3-171.xx đến nhà ông Trương Tấn H1 thu 500.000 đồng tiền góp. Mời làm việc, D, T17 khai đến nhà ông H1 để thu tiền góp do từ ngày 11-02-2023 đến ngày 08-5-2023, D cho ông H1 vay 06 kỳ, tổng số tiền vay 50.000.000 đồng và thu lợi bất chính được 7.589.977 đồng.

Quá trình điều tra xác định được như sau: Từ tháng 12-2022 đến ngày 10- 5-2023, Nguyễn Thế T18 thuê D hoạt động cho vay tiền góp trên địa bàn thị xã T và huyện T, tỉnh An Giang, với số tiền thuê 5.000.000 đồng/tháng, bao chi phí sinh hoạt và hỗ trợ tiền xăng mỗi ngày 150.000 đồng. Đến tháng 3-2023, T18 thuê thêm T17 mỗi tháng 5.000.000 đồng, bao chi phí sinh hoạt và hỗ trợ tiền xăng, phụ giúp D đi thu tiền góp của những người vay. D trực tiếp sử dụng tiền của T18 giao để cho vay, mỗi người vay được vay nhiều lần, mỗi lần từ 3.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, trả góp vốn, lãi hằng ngày, lãi suất cho vay từ 16% đến 30%/tháng (tương đương 192% đến 360%/năm), không ký hợp đồng vay, biên nhận, không giữ tài sản của người vay, mà chỉ giữ giấy tờ tùy thân như: chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân. Từ ngày 01-12-2022 đến ngày 10-5-2023, D đã sử dụng tiền của T18 cho 55 người vay với tông số tiền 930.000.000 đồng và thu lợi bất chính được 136.587.345 đồng, D được T18 trả công là 31.750.000 đồng; cụ thể:

1) Ngày 22-4-2023 Đỗ Thị Thanh T1 vay 01 kỳ 3.000.000 đồng, góp 25 ngày, tổng số tiền góp là 3.750.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 453.333 đồng;

2) Từ ngày 20-12-2022 đến ngày 25-4-2023 Đỗ Thị Thanh V vay 08 kỳ, tổng số tiền vay 24.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 4.709.865 đồng;

3) Từ 11-3-2023 đến 02-4-2023 Huỳnh Thị Kim C1 vay 02 kỳ, tổng số tiền vay 20.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 2.800.000 đồng;

4) Từ tháng 02-2023 đến tháng 4-2023 Huỳnh Thị N vay 03 kỳ, tổng số tiền vay 15.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 2.766.756 đồng;

5) Từ tháng 12-2022 đến tháng 4-2023 Huỳnh Văn T2 vay 05 kỳ, tổng số tiền là 50.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 7.555.556 đồng;

6) Từ 09-3-2023 đến ngày 05-5-2023 Lê Kim T3 vay 02 kỳ, tổng số tiền vay là 20.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 2.375.474 đồng;

7) Từ tháng 12-2022 đến tháng 4-2023 Lê Thị Ngọc D1 vay 05 kỳ, tổng số tiền 25.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 4.922.670 đồng;

8) Từ 25-3-2023 đến 12-4-2023 Lý Thị T4 vay 02 kỳ, tổng số tiền 10.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 1.509.140 đồng;

9) Từ ngày 12-4-2023 đến 23-4-2023 Nèang Chanh T19 vay 02 kỳ, tổng số tiền 15.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 1.895.714 đồng;

10) Từ tháng 3-2023 đến ngày 23-4-2023 Neáng Kim S vay 02 kỳ, tổng số tiền 10.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 1.581.004 đồng;

11) Từ ngày 10-02-2023 đến ngày 10-5-2023 Neàng Ô vay 02 kỳ, tổng số tiền 40.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 6.772.629 đồng;

12) Ngày 02-5-2023 Nguyễn Thị Kim C2 vay 01 kỳ, số tiền 5.000.000 đồng, tiền thu lợi bất chính là 244.444 đồng;

13) Từ tháng 3-2023 đến tháng 4-2023 Nguyễn Thị T6 vay 02 kỳ, tổng số tiền 8.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 1.510.556 đồng;

14) Từ tháng 12-2022 đến tháng 5-2023 Lê Thị Thanh K vay 08 kỳ, tổng số tiền 40.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 7.222.312 đồng;

15) Từ tháng 3-2023 đến 4-2023 S3 Anh Đ vay 03 kỳ, tổng số tiền 25.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 4.624.593 đồng;

16) Từ tháng 4-2023 đến tháng 5-2023 Phạm Văn T7 vay 02 kỳ, tổng số tiền 20.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 2.981.978 đồng;

17) Từ ngày 30-4-2023 đến ngày 02-5-2023 Võ Mỹ T8 vay 02 kỳ, tổng số tiền 20.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 888.889 đồng;

18) Từ 13-3-2023 đến 03-5-2023 Nguyễn Đức C3 vay 03 kỳ, tổng số tiền 30.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 4.548.780 đồng;

19) Tháng 4-2023 Trần Văn D2 vay 01 kỳ, số tiền 10.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 1.465.718 đồng;

20) Từ ngày 11-02-2023 đến ngày 08-5-2023 Trương Tấn H1 vay 06 kỳ, số tiền 50.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 7.589.977 đồng;

21) Từ ngày 11-01-2023 đến ngày 19-4-2023 Lương Thị Kim L1 vay 05 kỳ, tổng số tiền 25.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 4.700.407 đồng;

22) Ngày 07-5-2023 Trần Thị M1 vay 01 kỳ, số tiền 10.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 151.626 đồng;

23) Từ ngày 21-02-2023 đến ngày 06-5-2023 Nguyễn Thị Cẩm N1, vay 05 kỳ, tổng số tiền 25.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 4.599.283 đông;

24) Ngày 15-4-2023 Trần Thị S1 vay 01 kỳ, số tiền 5.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 898.297 đồng;

25) Ngày 24-4-2023 Trương Ngọc H2 vay 01 kỳ, số tiền 5.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 610.842 đồng;

26) Từ ngày 23-12-2022 đến ngày 24-4-2023 Trần Thị Ngọc M1 vay 04 kỳ tổng số tiền 40.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 6.974.797 đồng;

27) Từ ngày 12-3-2023 đến ngày 12-4-2023 Trần Văn T9 vay 02 kỳ, tổng số tiền 20.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 3.588.482 đồng;

28) Ngày 02-5-2023 Tạ Thị Bé H3 vay 01 kỳ, số tiền 5.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 213.889 đồng;

29) Ngày 25-4-2023 Phạm Thanh T10 vay 01 kỳ, số tiền 5.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 458.333 đồng;

30) Từ ngày 07-4-2023 đến ngày 28/4/2023 Nguyễn Văn T11 vay 02 kỳ, tổng số tiền 10.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 1.581.004 đồng;

31) Ngày 17-4-2023 Nguyễn Văn N2 vay 01 kỳ, số tiền 20.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 2.426.016 đồng;

32) Ngày 17-4-2023 Nguyễn Thị Thúy D3 vay 01 kỳ, số tiền 5.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 702.778 đồng;

33) Ngày 03-5-2023 Nguyễn Thị T12 vay 01 kỳ, số tiền 10.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 404.336 đồng;

34) Từ tháng 12-2022 đến 07-5-2023 Nguyễn Thị Á vay 06 kỳ, số tiền 60.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 10.512.737 đồng;

35) Ngày 20-4-2023 Lê Văn S2 vay 01 kỳ, số tiền 10.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 1.061.382 đồng;

36) Ngày 18-4-2023 Huỳnh Văn H4 vay 01 kỳ, số tiền 5.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 702.778 đồng;

37) Ngày 03-5-2023 Huỳnh Thị H5 vay 01 kỳ, số tiền 10.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 404.336 đồng;

38) Ngày 03-5-2023 Hà Ngọc T13 vay 01 kỳ, số tiền 5.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 287.455 đồng;

39) Từ ngày 08-4-2023 đến ngày 27-4-2023 Cao Thị Ngọc Y vay 02 kỳ, tổng số tiền 10.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 1.616.935 đồng.

40) Tháng 4-2023 đến ngày 03-5-2023 Nguyễn Văn Ú vay 02 kỳ, tổng số tiền 10.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 1.365.412 đồng;

41) Từ ngày 23-02-2023 đến ngày 03-5-2023 Nguyễn Kim X vay 03 kỳ, tổng số tiền 30.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 4.548.780 đồng;

42) Từ ngày 10-4-2023 đến ngày 07-5-2023 Phan Văn P vay 02 kỳ, tổng số tiền 20.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 2.223.848 đồng;

43) Ngày 24-4-2023 Trần Thị H6 vay 01 kỳ, số tiền 10.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 909.756 đồng;

44) Từ ngày 26-3-2023 đến ngày 26-4-2023 Nguyễn Văn T14 vay 02 kỳ, số tiền là 20.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 2.779.810 đồng;

45) Từ ngày 01-3-2023 đến ngày 03-4-2023 Lâm Thị Ngọc D4 vay 02 kỳ, tổng số tiền là 20.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 2.426.016 đồng;

46) Ngày 05-5-2023 Phạm Văn X1 vay 01 kỳ, số tiền là 5.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 179.659 đồng;

47) Ngày 23-4-2023 Nguyễn Trí H7 vay 01 kỳ, số tiền 10.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 1.010.840 đồng;

48) Ngày 05-4-2023 Cao Đình Minh H8 vay 01 kỳ, số tiền 10.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 1.768.970 đồng;

49) Từ ngày 09-3-2023 đến ngày 01/4/2023 Châu Thanh Đ1 vay 02 kỳ, tổng số tiền 15.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 1.467.683 đồng;

50) Ngày 16-4-2023 Phạm Phương T15 vay 01 kỳ, số tiền 5.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 702.778 đồng;

51) Ngày 10-4-2023 Phạm Thị H9 vay 01 kỳ, số tiền 10.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 1.516.260 đồng;

52) Từ tháng 4-2023 đến ngày 03-5-2023 Lê Ngọc D5 vay 02 kỳ, tổng số tiền 10.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 1.401.344 đồng;

53) Ngày 16-4-2023 Phạm Thị Thúy K1 vay 01 kỳ, số tiền 5.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 826.434 đồng;

54) Ngày 22-4-2023 Phan Thị Tuyết N3 vay 01 kỳ, số tiền 5.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 718.638 đồng;

55) Từ tháng 4-2023 đến tháng 5-2023 Nguyễn Toàn L2 vay 02 kỳ, tổng số tiền 20.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 2.426.016 đồng.

Tang vật thu giữ gồm có: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11; 01 điện thoại di động hiệu Nokia; 01 xe mô tô biển số 59V3-171.xx; tiền Việt Nam 1.640.000 đồng. Các vật chứng khác Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T đã tách ra xử lý trong vụ án khác.

Tại Kết luận giám định số 333/KL-KTHS (KTSĐT-GT) ngày 30-9-2023 của Phòng K2 - Công an tỉnh A, kết luận: “Tìm thấy dữ liệu lưu trữ trong 04 điện thoại di động (ký hiệu A1, A2, A4, A5) do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T gửi giám định, chi tiết thể hiện trong đĩa DVD dữ liệu trích xuất kèm theo. Không tiến hành giám định trích xuất dữ liệu lưu trữ trong 01 điện thoại di động (ký hiệu A3) gửi giám định”.

Ngày 22-5-2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tạm giam Phạm Quỳnh D để điều tra, xử lý. Ngày 27-10- 2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T tách vụ án hình sự, tách hành vi “cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” đối với Phạm Quỳnh D để xác minh, điều tra, xử lý.

Tại Cáo trạng số 65/CT-VKSTB-HS ngày 22 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tịnh Biên đã truy tố Phạm Quỳnh D về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015).

Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, bị cáo Phạm Quỳnh D khai nhận hành vi phạm tội của mình nhu nội dung Cáo trạng đã nêu, cụ thể: trong khoảng thời gian từ tháng 12-2022 đến ngày 13-5-2023, bị cáo D sử dụng tiền của Nguyễn Thế T18 cho 55 người vay tiền trên địa bàn thị xã T và huyện T, tỉnh An Giang, mỗi người được vay nhiều lần, mỗi lần từ 3.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, trả gốc, lãi theo ngày (ví dụ: vay 3.000.000 đồng thì trả 3.750.000 đồng, trả trong 25 ngày, mỗi ngày trả 150.000 đồng; vay 5.000.000 đồng thì trả 6.200.000 đồng, trả trong 31 ngày, mỗi ngày trả 200.000 đồng; vay 10.000.000 đồng thì trả 12.300.000 đồng hoặc 12.400.000 đồng, trả trong 31 hay 41 ngày, mỗi ngày trả 300.000 đồng/41 ngày hoặc 400.000 đồng/31 ngày) thu lãi từ 16% đến 30%/tháng (tương đương từ 192% đến 360%/năm), tổng số tiền cho vay là 930.000.000 đồng, thu lợi bất chính 136.587.345 đồng, bị cáo được D trả tiền công mỗi tháng 5.000.000 đồng và trả chi phí ăn uống, tiền xăng mỗi ngày 150.000 đồng, tổng cộng được T18 trả 31.750.000 đồng. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Neàng Chanh T5, Trần Văn T9 cung cấp lời khai phù hợp với quá trình điều tra và xác định không có yêu cầu xem xét đối với số tiền đã góp cho bị cáo D; ông Đinh Bá T16 có yêu cầu được nhận lại xe mô tô biển số 59V3-171.xx do ông là chủ sở hữu vì không biết việc T17 sử dụng xe mô tô cùng D thực hiện hành vi cho vay lãi nặng tại T và T.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên toà nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu (từ bút lục 140 đến 203; 213 đến 357; 365 đến 579).

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 201; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự xử phạt bị cáo Phạm Quỳnh D mức phạt tù bằng với thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 13-5- 2023 đến ngày Tòa án xét xử 21-12-2023 và tuyên trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác. Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 46, 47 và Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, buộc bị cáo giao nộp số tiền 31.750.000 đồng để sung quỹ nhà nước; tịch thu, sung quỹ nhà nước 02 điện thoại di động thu giữ của bị cáo; giao xe mô tô biển số 59V3-171.xx cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T tiếp tục xác minh, điều tra, xử lý theo luật định; tiếp tục tạm giữ số tiền 1.640.000 đồng để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

Đối với Nguyễn Thế T18 có hành vi thuê D và T17 giúp sức trong việc cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là vi phạm pháp luật, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T đã ra Quyết định khởi tố bị can và Lệnh bắt tạm giam đối với T18. Hiện T18 không có mặt tại nơi cư trú và không rõ ở đâu, chưa làm việc được, khi nào bắt được T18 sẽ xử lý sau.

Đối với Đinh Văn T17 có hành vi cùng với D đi thu tiền góp của những người vay là vi phạm pháp luật, tuy nhiên, hiện nay T17 không có mặt tại nơi cư trú và không rõ ở đâu, nên chưa làm việc được. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thống nhất quan điểm luận tội, không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xử phạt nhẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

- Tại phiên toà, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Đỗ Thị Thanh T1, Đỗ Thị Thanh V, Huỳnh Thị Kim C1, Huỳnh Thị N, Huỳnh Văn T2, Lê Kim T3, Lê Thị Ngọc D1, Lý Thị T4, Neáng Kim S, Neàng Ô, Nguyễn Thị Kim C2, Nguyễn Thị T6, Lê Thị Thanh K, Sơn Anh Đ, Phạm Văn T7, Võ Mỹ T8, Nguyễn Đức C3, Trần Văn D2, Trương Tấn H1, Lương Thị Kim L1, Trần Thị M1, Nguyễn Thị Cẩm N1, Trần Thị S1, Trương Ngọc H2, Trần Thị Ngọc M1, Tạ Thị Bé H3, Phạm Thanh T10, Nguyễn Văn T11, Nguyễn Văn N2, Nguyễn Thị Thúy D3, Nguyễn Thị T12, Nguyễn Thị Á, Lê Văn S2, Huỳnh Văn H4, Huỳnh Thị H5, Hà Ngọc T13, Cao Thị Ngọc Y, Nguyễn Văn Ú, Nguyễn Kim X, Phan Văn P, Trần Thị H6, Nguyễn Văn T14, Lâm Thị Ngọc D4, Phạm Văn X1, Nguyễn Trí H7, Cao Đình Minh H8, Châu Thanh Đ1, Phạm Phương T15, Phạm Thị H9, Lê Ngọc D5, Phạm Thị Thúy K1, Phan Thị Tuyết N3, Nguyễn Toàn L2 vắng mặt, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy, sự vắng mặt của những người này không gây trở ngại đến việc xét xử của vụ án. Căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Phạm Quỳnh D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ kết luận:

Do có mối quan hệ quen biết với nhau từ trước, từ tháng 12-2022 đến ngày 10-5-2023, Nguyễn Thế T18 thuê Phạm Quỳnh D thực hiện việc cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự trên địa bàn thị xã T và huyện T, tỉnh An Giang, với số tiền thuê 5.000.000 đồng mỗi tháng, bao chi phí sinh hoạt và hỗ trợ tiền xăng mỗi ngày 150.000 đồng. Đến tháng 3-2023, T18 thuê thêm Đinh Văn T17 mỗi tháng 5.000.000 đồng, bao chi phí sinh hoạt và hỗ trợ tiền xăng, phụ giúp D đi thu tiền góp của những người vay. T18 là người cung cấp vốn, quản lý, điều hành việc cho vay, thuê D phụ trách trực tiếp sử dụng tiền của T18 để cho vay, ghi chép, theo dõi việc cho vay và thu tiền vay; hình thức cho vay, mỗi người được vay nhiều lần, mỗi lần từ 3.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, trả lãi, gốc theo ngày, lãi suất cho vay từ 16% đến 30%/tháng (tương đương từ 192% đến 360%/năm), khi vay không ký hợp đồng vay, không viết biên nhận, không giữ tài sản tài sản của người vay, chỉ giữ bản chính giấy tờ tùy thân như căn cước công dân, chứng minh nhân dân. Trong khoảng thời gian trên, bị cáo D đã sử dụng tiền của T18 cho 55 người vay, tổng số tiền cho vay là 930.000.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính là 136.587.345 đồng, D được T18 trả công là 31.750.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Quỳnh D đã phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt quy định phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, tài chính của Nhà nước, vi phạm các quy định về hoạt động tín dụng, gây mất trật tự trị an và an toàn cho xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần phải xử lý nghiêm để đảm bảo mục đích giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo Phạm Quỳnh D là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi cho vay lãi nặng là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích thu lợi bất chính, phục vụ nhu cầu sinh hoạt. Bị cáo D giúp sức tích cực cho Nguyễn Thế T18 cho 55 người vay tiền trên địa bàn thị xã T và huyện T, tỉnh An Giang, tổng số tiền cho vay là 930.000.000 đồng, tổng số tiền thu lợi bất chính 136.587.345 đồng, bị cáo D được T18 trả tiền công 31.750.000 đồng. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mà mình gây ra. Trước khi phạm tội, bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, việc cho vay là sự thỏa thuận giữa các cá nhân với nhau trong giao dịch dân sự nhưng hành vi cho vay lãi nặng của bị cáo có tính chất bóc lột nhằm thu lợi bất chính, làm người vay lâm vào hoàn cảnh khó khăn, dẫn đến nhiều hệ lụy xấu cho xã hội. Quá trình tạm giam, bị cáo không vi phạm nội quy, quy chế, quy định nơi giam giữ. Nhận thấy, thời gian tạm giam đã đủ để răn đe, giáo dục bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy không cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà cần tạo điều kiện cho bị cáo trở về tái hòa nhập cộng đồng, có điều kiện lao động chân chính, trở thành công dân có ích cho gia đình, xã hội. Do đó, mức hình phạt tù đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên toà bằng với thời hạn bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam là tương xứng với tính chất mức độ phạm tội mà bị cáo đã gây ra, đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo nên đề nghị này được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 201 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Tuy nhiên, bị cáo thuộc thành phần lao động, không nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Các vấn đề khác:

Đối với Nguyễn Thế TI8 có hành vi thuê bị cáo D và Đinh Văn T17 giúp sức trong việc cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là vi phạm pháp luật, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T đã ra Quyết định khởi tố bị can và Lệnh bắt tạm giam đối với T18. Ngày 27/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T ban hành Quyết định tách vụ án hình sự đối với hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự của Phạm Quỳnh D. Hiện T18 không có mặt tại nơi cư trú và không rõ ở đâu, chưa làm việc được; do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T tiếp tục điều tra, xác minh, xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.

Đối với Đinh Văn T17 có hành vi cùng với bị cáo D đi thu tiền góp của những người vay là vi phạm pháp luật, hiện nay T17 không có mặt tại nơi cư trú và không rõ ở đâu, nên chưa làm việc được. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Bị cáo D sử dụng tiền của Nguyễn Thế T18 để cho vay nên số tiền gốc sử dụng cho vay, tiền lãi tương ứng mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự mà người phạm tội đã thu của người vay và thu lợi bất chính sẽ được xử lý trong vụ án đối với Nguyễn Thế T18.

- Bị cáo D giúp sức tích cực cho Nguyễn Thế T18 trong việc cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự từ tháng 12-2022 đến ngày 10-5-2023, được T18 trả tiền công 31.750.000 đồng nên đây là tiền do phạm tội mà có; vì vậy, tịch thu, sung ngân sách nhà nước theo điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia là tài sản cá nhân của bị cáo, được bị cáo sử dụng làm phương tiện liên lạc với T18 và những người vay để thực hiện việc cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự nên tịch thu sung ngân sách nhà nước theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Đối với 01 xe mô tô loại Jupiter, biển số 59V3-171.xx, theo Phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày 01-6-2023 của Công an thị xã T, xe mô tô biển số 59V3-171.xx do ông Đinh Bá T16 đứng tên chủ sở hữu. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, ông T16 có lời khai xác định cho Đinh Văn T17 mượn xe để sử dụng, không biết T17 sử dụng xe cùng với bị cáo D để thực hiện hành vi cho vay lãi nặng nên có yêu cầu nhận lại xe mô tô; bị cáo D có lời khai xác định, xe mô tô biển số 59V3-171.xx không phải của bị cáo, không có ý kiến đối với yêu cầu xin được nhận lại xe của ông TI6. Vì vậy, giao trả cho chủ sở hữu ông Đinh Bá T16 xe mô tô biển số 59V3-171.xx cùng giấy chứng nhận đăng ký xe theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nếu có tranh chấp liên quan đến xe mô tô biển số 59V3-171.xx sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác khi có yêu cầu.

- Tiếp tục tạm giữ tiền Việt Nam 1.640.000 đồng thu giữ của bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 2 Điều 201; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 5 Điều 328 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Phạm Quỳnh D phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”;

Xử phạt: Phạm Quỳnh D 07 (bảy) tháng 09 (chín) ngày tù bằng với thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam.

Tuyên trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo D, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Buộc bị cáo Phạm Quỳnh D giao nộp số tiền 31.750.000 (ba mươi mốt triệu, bảy trăm năm mươi nghìn) đồng là tiền do phạm tội mà có để sung ngân sách nhà nước.

- Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11, số máy MHDA3VN/A, số sê ri: DX3HG1HDN735, màu đen và 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia 210.V20.00.11, màu đen.

- Giao trả cho ông Đinh Bá T16 : 01 (một) xe mô tô, biển số 59V3- 171.xx, loại xe Jupiter, nhãn hiệu: Yamaha, số máy: E3S1E124657, số khung: 1340KY087000, màu sơn: xanh đen (kèm theo giấy chứng nhận đăng ký xe số 140391, biển số: 59V3-171.xx).

- Tiếp tục tạm giữ số tiền Việt Nam 1.640.000 (một triệu, sáu trăm bốn mươi nghìn) đồng để bảo đảm cho việc thi hành án của bị cáo.

(Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 30 tháng 11 năm 2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã T với Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Tịnh Biên).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Phạm Quỳnh D phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Phạm Quỳnh D, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Neàng Chanh T5, Trần Văn T9, Đinh Bá T16 có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

62
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 63/2023/HS-ST

Số hiệu:63/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về