Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự (0,667%/ngày đến 01%/ngày) số 21/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 15/03/2021 VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ

Ngày 15 tháng 3 năm 2021 tại Toà án nhân dân huyện C, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 18/2021/HSST ngày 28 tháng 02 năm 2021 theo Quyết Đ đưa vụ án ra xét xử số 125/2020/QĐXXST-HS ngày 30/10/2020 đối với bị cáo:

LÊ NGỌC Đ1, sinh năm 1997; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: tổ dân phố M D, thị trấn D, huyện T, tỉnh T; Nơi ở trước khi bị bắt: tổ 9B, khu phố 2, thị trấn C, huyện T, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Lê Ngọc Đ, sinh năm 1961 và bà Lê Thị S, sinh năm 1966; Vợ, con chưa có; Tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/7/2020 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lê Thị Ngọc H, sinh năm 1973; Địa chỉ cư trú: Ấp 2, xã Thành Tâm, huyện T, tỉnh B. (Có mặt)

2. Bà Vũ Thị Mỹ L, sinh năm 1960; Địa chỉ cư trú: Tổ 7, khu phố T, thị trấn K, tỉnh B. (Vắng mặt)

3. Bà Vũ Thị T, sinh năm 1956; Địa chỉ cư trú: Ấp 1, xã Minh T, huyện Ch Thành, tỉnh B. (Có mặt)

4. Chị Phùng Thị Kiều T, sinh năm 1991; Địa chỉ cư trú: Khu phố 3, thị trấn T, huyện T, tỉnh B. (Vắng mặt)

5.Bà Trương Thị M, sinh năm 1950; Địa chỉ cư trú: Tổ 7, ấp 1, xã Minh T, huyện T, tỉnh B. (Có mặt)

6. Bà Cao Thị D, sinh năm 1971; Địa chỉ cư trú: Tổ 2, ấp 5, xã Minh L, huyện T, tỉnh B. (Có mặt)

7. Anh Trần Văn Đ2, sinh năm 1985; Địa chỉ cư trú: Tổ 4B, ấp 2, xã Minh H, huyện T, tỉnh B. (Vắng mặt)

8. Chị Nguyễn Thị Y N, sinh năm 1999; Địa chỉ cư trú: Tổ 2, ấp 1, xã Thành T, huyện T, tỉnh B. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ khoảng tháng 9 năm 2019, Lê Ngọc Đ đến sinh sống tại khu phố 2, thị trấn C, huyện C và đi thu tiền lãi suất thuê cho Đào Ngọc Đ1 tại địa bàn huyện C và một số địa bàn lân cận. Đ được Đ1 trả tiền thuê là 5.000.000 đồng/tháng và lo chi phí bao ăn, ở. Thời gian đầu, Đ đi cùng với Đ1 và được Đ1 giới thiệu với người vay, hướng dẫn cách thức thu tiền, số tiền thu của từng người vay. Sau đó, Đ tự đi thu tiền một mình rồi báo lại cho Đ1 số thu tiền trong ngày, giao tiền lại cho Đ1 quản lý; Đ1 giữ tất cả sổ liên quan đến hoạt động cho vay.

Từ khoảng tháng 01 năm 2020, khi Đ1 giao lại toàn bộ việc cho vay, thu lãi suất, ghi chép vào sổ cho Đ và hằng ngày đều báo cho Đ1 biết. Khi Đ1 yêu cầu chuyển tiền thì Đ chuyển tiền vào tài khoản số 10986910xxxx của Đ1 mở tại Ngân hàng VietinBank chi nhánh C.

Lợi dụng nhu cầu cần vay tiền nhanh, không cần làm các thủ tục vay của một số người kinh doanh, buôn bán nhỏ lẻ để sử dụng vào mục đích cá nhân, Đ1 và Đ đã cho vay thu lợi bất chính. Đ phát Nều tờ rơi để khi có người cần vay tiền thì gọi điện thoại, Đ, Đ1 sẽ đến gặp tại địa điểm buôn bán hoặc tại nơi ở. Sau khi thỏa thuận thống nhất về số tiền vay, số ngày góp, số tiền góp, người vay chỉ cần đưa giấy chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu gia đình và đa phần không làm hợp đồng, chỉ một số trường hợp có làm giấy vay tiền khi vay lần đầu. Tùy theo nhu cầu vay và khả năng góp tiền của người vay, Đ1, Đ đưa ra các gói vay như: vay 5.000.000 đồng, góp trong vòng 24 ngày, mỗi ngày 250.000 đồng; vay 10.000.000 đồng, góp trong vòng 30 ngày, mỗi ngày 400.000 đồng v.v. tương đương lãi suất từ 0,667%/ngày đến 01%/ngày. Trong quá trình trả góp, nếu người vay có nhu cầu vay tiền khi đang trả góp thì được vay tiếp (đáo lại), số tiền có thể bằng hoặc cao hơn số tiền đã vay. Tuy Nên, khi vay tiền, bị can sẽ cộng số tiền góp mà người vay còn nợ và trừ vào khoản tiền vay mới, số tiền còn lại sẽ đưa cho người vay để tiếp tục trả góp theo lần vay mới. Từ tháng 01 năm 2020 đến tháng 7 năm 2020, Đ đã chuyển cho Đ1 tổng số tiền 169.800.000 đồng.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã tiến hành xác minh, làm rõ Đ1 và Đ đã 03 lần cho 08 người vay tiền trên địa bàn huyện C, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất:

Bà Lê Thị Ngọc H: tháng 11 năm 2019, bà H vay 40.000.000 đồng, trả góp trong 30 ngày, mỗi ngày góp 1.600.000 đồng, lãi suất 0,667%/ngày. Khi vay tiền, bà H thế chấp 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 020795 do con trai tên Nguyễn Quốc D đứng tên chủ sở hữu. Sau đó, bà H vay đáo lại 02 lần với cùng số tiền vay và mức góp. Từ ngày 05 tháng 01 năm 2020 đến ngày 01 tháng 02 năm 2020, bà H vay của Đ1 05 lần, mỗi lần vay 10.000.000 đồng, trả góp trong 30 ngày, mỗi ngày góp 400.000 đồng và 01 lần vay 20.000.000 đồng, trả góp trong 30 ngày, mỗi ngày góp 800.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền bà H đã vay Đ1, Đ là 200.000.000 đồng, tổng số tiền phải trả là 240.000.000 đồng, bà H đã trả số tiền 183.200.000 đồng, còn nợ 58.600.000 đồng. Ngoài ra, khi vay tiền bà H phải đóng khoản phí vay 40.000 đồng/1.000.000 đồng, tổng cộng 8.000.000 đồng. Như vậy, số tiền thu lợi bất chính đã thu được là 36.014.333 đồng.

Lần thứ hai:

Bà Vũ Thị Mỹ L (trong danh sách thu tiền bị can ghi tên L Th): tháng 02 năm 2020, bà L vay 40.000.000 đồng, trả góp trong 24 ngày, mỗi ngày góp 2.000.000 đồng, lãi suất 0,833%/ngày. Tổng số tiền bà L phải trả là 48.000.000 đồng, trong đó tiền gốc 40.000.000 đồng, tiền lãi 8.000.000 đồng. Sau đó, bà L vay đáo lại 05 lần với cùng số tiền vay và mức góp. Như vậy, bà L vay 06 lần với tổng số tiền 240.000.000 đồng, tổng số tiền phải trả là 288.000.000 đồng. Bà L đã trả 244.000.000 đồng, còn nợ 44.000.000 đồng. Ngoài ra, bà L phải trả khoản phí vay 40.000 đồng/1.000.000 đồng, tổng cộng 9.600.000 đồng. Như vậy, số tiền thu lợi bất chính đã thu được là 47.582.667 đồng.

Lần thứ ba:

Bà Vũ Thị T1 (trong danh sách thu tiền bị can ghi tên T1): từ khoảng tháng 8 năm 2018, bà T1 bắt đầu vay tiền góp của Đ1. Mỗi lần bà T1 vay 10.000.000 đồng, trả góp trong 30 ngày, mỗi ngày góp 400.000 đồng, lãi suất 0,667%/ngày. Từ khoảng tháng 9 năm 2019 đến tháng 7 năm 2020, bà T1 vay của Đ1 tổng cộng 10 lần cùng số tiền vay và mức góp. Ngoài ra, bà T1 còn vay thêm 01 gói 5.000.000 đồng, trả góp trong 30 ngày, mỗi ngày góp 200.000 đồng. Lần vay cuối cùng vào tháng 5 năm 2020, bà T1 mới góp được 20 ngày với tổng số tiền 8.000.000 đồng, còn nợ 4.000.000 đồng. Như vậy, bà T1 vay tổng cộng 105.000.000 đồng, tổng số tiền phải trả là 126.000.000 đồng, bà T1 đã trả 122.000.000 đồng, còn nợ 4.000.000 đồng. Ngoài ra, mỗi lần vay bà T1 phải trả khoản phí vay 40.000 đồng/1.000.000 đồng, tổng cộng 4.200.000 đồng. Như vậy, số tiền thu lợi bất chính bị can đã thu được khi cho bà T1 vay tiền là 22.855.833 đồng.

- Chị Phùng Thị Kiều T (trong danh sách thu tiền bị can ghi tên T bia): tháng 01 năm 2020, chị T vay 10.000.000 đồng, trả góp trong 30 ngày, mỗi ngày góp 400.000 đồng; sau đó, vay đáo lại 01 lần với cùng số tiền vay và mức góp. Lần vay thứ hai, chị T mới góp được 16 ngày với tổng số tiền 6.400.000 đồng, còn nợ 5.600.000 đồng. Ngoài ra, tháng 01 năm 2020, chị T vay 10.000.000 đồng tiền đứng với mức lãi suất 01%/ngày, với gói vay này, chị T đã trả được 03 tháng tiền lãi tổng cộng 9.000.000 đồng, vẫn còn nợ 10.000.000 đồng tiền gốc. Ngoài ra, quá trình vay chị T phải trả khoản phí vay 50.000 đồng/1.000.000 đồng, tổng cộng 1.500.000 đồng. Tổng số tiền thu lợi bất chính bị can thu được là 12.818.667 đồng.

- Bà Trương Thị M (trong danh sách thu tiền bị can ghi tên M T1): tháng 01 năm 2020, bà M vay 15.000.000 đồng, lãi suất 01%/ngày (thường gọi là tiền đứng). Sau đó, bà M đã trả 22.200.000 đồng, gồm tiền gốc 15.000.000 đồng và tiền lãi 7.200.000 đồng; tháng 3 năm 2020, bà M tiếp tục vay 15.000.000 đồng, lãi suất 01%/ngày, đến ngày 29 tháng 3 năm 2020, bà M đã trả 17.500.000 đồng, gồm tiền gốc 15.000.000 đồng và tiền lãi 2.500.000 đồng, bà M trả hết cho Đ. Ngoài ra, khi vay tiền bà M phải trả khoản phí vay tổng cộng 1.200.000 đồng. Tổng số tiền thu lợi bất chính bị can thu được là 10.366.500 đồng.

- Bà Cao Thị D, sinh năm 1971 (trong danh sách thu tiền bị can ghi bà D Minh L): tháng 02 năm 2020, bà D vay 10.000.000 đồng tiền đứng, lãi suất 01%/ngày, đến ngày 12 tháng 4 năm 2020, bà D đã trả đủ 12.700.000 đồng, trong đó tiền gốc 10.000.000 đồng, tiền lãi 2.700.000 đồng. Sau đó, tháng 4 năm 2020, bà D tiếp tục vay 3.000.000 đồng tiền đứng, lãi suất 01%/ngày, bà D đã trả được 02 tháng tiền lãi với tổng số tiền 1.780.000 đồng; tháng 6 năm 2020, bà D tiếp tục vay 3.000.000 đồng tiền đứng, lãi suất 01%/ngày và đóng được 01 tháng tiền lãi với số tiền 890.000 đồng, bà D còn nợ 6.000.000 đồng. Ngoài ra, khi vay tiền bà D phải trả khoản phí vay tổng cộng 1.100.000 đồng. Như vậy, số tiền thu lợi bất chính thu được là 6.174.650 đồng.

- Chị Nguyễn Thị Y N (trong danh sách thu tiền bị can ghi tên là Y bia): ngày 02 tháng 3 năm 2020, chị Phùng Thị Kiều T giới thiệu chị N vay 5.000.000 đồng, trả góp trong 30 ngày, mỗi ngày góp 200.000 đồng, lãi suất 0,667%/ngày. Tổng số tiền chị N phải trả là 6.000.000 đồng, trong đó tiền gốc 5.000.000 đồng, tiền lãi 1.000.000 đồng. Chị N đã trả hết số tiền trên. Ngoài ra, quá trình vay chị N phải trả khoản phí vay 250.000 đồng. Tổng số tiền thu lợi bất chính thu được là 1.167.500 đồng.

- Anh Trần Văn Đ2 (trong danh sách thu tiền bị can ghi tên Đ2 MH): ngày 25 tháng 5 năm 2020, anh Đ2 vay 25.000.000 đồng, trả góp trong 30 ngày, mỗi ngày góp 1.000.000 đồng, lãi suất 0,667%/ngày. Ngày 22 tháng 6 năm 2020, anh Đ2 nâng số tiền vay lên 50.000.000 đồng, trả góp trong 30 ngày, mỗi ngày 2.000.000 đồng, lãi suất 0,667%/ngày. Anh Đ2 đã trả góp được 15 ngày với tổng số tiền 30.000.000 đồng, còn nợ 30.000.000 đồng. Số tiền thu lợi bất chính bị can đã thu được là 9.175.000 đồng.

Như vậy, từ tháng 9 năm 2019 đến ngày 06 tháng 7 năm 2020, Lê Ngọc Đ và Đào Ngọc Đ1 đã 03 lần cho 08 người trên địa bàn huyện C vay 701.000.000 đồng, thu lợi bất chính 146.155.150 đồng.

Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ: 03 quyển vở ghi chép hoạt động cho vay và thu tiền hàng ngày; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, số Imei: 356067036115235; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số Imei: 356965092018740/53 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu sơn trắng – xanh, biển kiểm soát: 93F1-xxxxx. Tất cả các vật chứng, tài liệu đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

Bản cáo trạng số 08/Ctr-VKS ngày 29/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B truy tố bị cáo Lê Ngọc Đ về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo khoản 2 Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Lê Ngọc Đ phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” và áp dụng khoản 2 Điều 201; điểm i, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 09 đến 12 tháng tù.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C còn đề nghị xử lý vật chứng và các vấn đề khác của vụ án theo qui Đ của pháp luật.

Tại phiên tòa: Bị cáo Lê Ngọc Đ thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như bản Cáo trạng đã truy tố.

Lời nói sau cùng của bị cáo: xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Vũ Thị Mỹ L, chị Phùng Thị Kiều T và anh Trần Văn Đ2 vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên căn cứ vào Điều 292 Bộ luật tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án. [2]. Về nội dung:

Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với các lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Từ tháng 9 năm 2019 đến ngày 06 tháng 7 năm 2020 trên địa bàn huyện C, Đào Ngọc Đ1 và Lê Ngọc Đ đã trực tiếp 03 lần cho 08 người vay tiền với mức lãi suất từ 0,667%/ngày đến 01%/ngày, tương đương từ 20% đến 30%/tháng, tương ứng 240% đến 360%/năm, gấp 12 đến 15 lần mức lãi suất do Bộ luật dân sự quy định là 20%/năm, với số tiền dùng để cho vay là 701.000.000 đồng, thu lợi bất chính là 146.155.150 đồng.

Như vậy, hành vi của Lê Ngọc Đ đủ yếu tố cấu thành tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hnh vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước về lĩnh vực tiền tệ đã được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến tình tình trật tự, trị an của địa phương. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp; bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B truy tố bị cáo phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[3]. Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách Nệm hình sự:

[3.1]. Về tình tiết tăng nặng trách Nệm hình sự: Bị cáo Nều lần thực hiện hành vi cho vay lãi nặng, tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần phạm tội hơn 100.000.000 đồng nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3.2]. Về tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có nhân thân chưa tiền án, tiền sự và tại phiên Tòa những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đ vì Đ không phải là người cho vay mà chỉ là người đi thu tiền vay, lãi cho Đào Ngọc Đ1. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách Nệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4]. Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 3 Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xét thấy bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn Đ. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Căn cứ vào tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn trong đó bị cáo Lê Ngọc Đ giữ vai trò thứ yếu chỉ là người giúp sức cho Đào Ngọc Đ1 đi thu tiền vay, lãi và chỉ làm công ăn lương. Tuy nhiên hiện nay loại tội phạm “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” xảy ra rất Nều do đó cần phải xử bị cáo mức án đủ nghiêm, cách ly bị cáo ra khởi xã hội một thời gian có tác dụng giáo dục bị cáo cũng như phục vụ công tác phòng chống tội phạm.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh B về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt là có căn cứ, phù hợp với nhận Đ của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6]. Về biện pháp tư pháp:

Số tiền vốn ban đầu (được xác Đ là số tiền vốn cho vay lần đầu tiên và số tiền đáo lại Nều hơn số tiền vay lần đầu) Đào Ngọc Đ1 sử dụng để cho người vay vay tiền là phương tiện phạm tội, cần tịch thu sung quỹ nhà nước là 180.000.000 đồng.

Đối với khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm là 9.364.850 đồng. Đây là khoản tiền phát sinh từ tội phạm nên truy thu từ Đào Ngọc Đ1 để tịch thu sung quỹ Nhà nước. Khoản tiền lãi vượt mức lãi suất 20%/năm là 193.639.316 đồng, tiền phí khi cho vay là 25.850.000 đồng và số tiền gốc còn nợ là 152.600.000 đồng mà các người vay chưa thanh toán. Sau khi lấy số tiền lãi thu vượt 20% “cộng” phí vay “trừ” đi số tiền nợ gốc mà người vay chưa trả (nếu có), thì số tiền này sẽ được Đ1 trả cho những người vay hoặc truy thu người vay để sung quỹ nhà nước. Do Đào Ngọc Đ1 đã bỏ trốn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã khởi tố bị can, ra lệnh bắt bị can để tạm giam, ra Quyết Đ truy nã và tạm đình chỉ điều tra vụ án đối với bị can Đ1. Khi bắt được sẽ phục hồi điều tra, xử lý theo đúng quy định.

Đối với 20.000.000 đồng Lê Ngọc Đ đã nhận từ việc làm thuê cho Đ1, đây là tiền do Đ1 phạm tội mà có nên cần buộc bị cáo Đ nộp lại sung quỹ Nhà nước.

Cơ quan điều tra đang tạm giữ tài liệu, vật chứng: 03 quyển vở ghi chép hoạt động cho vay và thu tiền hàng ngày sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu huỷ.

01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, số Imei: 356067036115235;

01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số Imei: 356965092018740/53 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu sơn trắng – xanh, biển kiểm soát: 93F1- xxxxx sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

[7]. Án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo luật Đ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 201; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự năm Lê Ngọc Đ phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”.

2. Xử phạt bị cáo Lê Ngọc Đ 08 (Tám) tháng 09 (Chín) ngày tù bằng thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/7/2020 đến ngày 15/3/2021.

Tuyên trả tự do cho bị cáo Lê Ngọc Đ ngay tại phiên tòa nếu không bị tạm giữ, tạm giam về một tội phạm khác.

3.Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu huỷ 03 quyển vở ghi chép hoạt động cho vay và thu tiền hàng ngày.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, số Imei: 356067036115235; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số Imei: 356965092018740/53 và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu sơn trắng – xanh, biển kiểm soát: 93F1-xxxxx.

Buộc bị cáo Lê Ngọc Đ nộp lại 20.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống Đ2 hoặc nêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự (0,667%/ngày đến 01%/ngày) số 21/2021/HS-ST

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chơn Thành - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về