Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 71/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ RIỀNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 71/2021/HSST NGÀY 30/09/2021 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 30 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 78/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2021/QĐXXST-HS ngày 01/9/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Huỳnh Thị Ngọc T, sinh năm 1984 tại: Tây Ninh; HKTT: Ấp 1, xã T, huyện Đ, tỉnh Bình Phước; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nữ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ và tên cha: Huỳnh Ngọc N, sinh năm 1956; Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị S, sinh năm 1957; Chồng là ông: Nguyễn Hồng H, sinh năm 1981 và có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2018; T án, T sự: Không; Bị cáo được tại ngoại cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

Nhân thân:

Ngày 09/01/2015, bị Ủy ban nhân dân thị xã Đ, tỉnh Bình Phước ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 43/QĐ-XPVPHC với số T 35.000.000đ (Ba mươi lăm triệu đồng) về hành vi “Buôn bán hàng cấm” Ngày 31/8/2020, bị Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 2151/QĐ-XPVPHC với số T 85.000.000đ (Tám mươi lăm triệu đồng) về hành vi “Buôn bán hàng cấm” (Đã chấp hành xong)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu mua thuốc lá điếu về bán lại cho người khác để kiếm lời nên ngày 26/4/2021, Huỳnh Thị Ngọc T đến huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước tìm người đàn ông tên Đ (không rõ nhân thân, lai lịch) để mua thuốc lá điếu của người này. Sau khi thỏa thuận giá mua là 142.000 đồng/ 01 cây thuốc lá hiệu Hero và 172.000 đồng/ 01 cây thuốc lá hiệu Jet (loại 01 cây 10 bao, 01 bao 20 điếu). T đồng ý mua với số lượng 65 cây thuốc lá hiệu Jet và 80 cây thuốc lá hiệu Hero, đồng thời thỏa thuận địa điểm giao nhận thuốc lá vào buổi trưa ngày 27/4/2021 tại cầu Phú Châu thuộc thôn Phú Châu, xã Bình Sơn, Phú Riềng.

Đến khoảng 11 giờ ngày 27/4/2021, T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 93M1-058.49 đến địa điểm đã hẹn trước gặp người đàn ông tên Đen và người nay giao cho T 01 bao tải bên trong có 65 cây thuốc lá hiệu Jet và 80 cây thuốc lá hiệu Hero như đã thỏa thuận trước đó với tổng số T 22.540.000 đồng. Sau khi mua được thuốc, T buộc bao thuốc lá lên xe và chở về nhà tại huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước. Khi đến đoạn đường thuộc thôn T, xã B, huyện R thì bị ông Nguyễn Đình Q là chủ tịch ủy ban nhân dân xã B đang đi tuần cùng Công an xã B phát hiện yêu cầu dừng xe và báo cho Công an xã đến lập biên bản vi phạm đồng thời thu giữ tang vật vụ án.

Khi làm việc tại Công an xã B, do tình hình dịch bệnh Covid-19 nên T được phép đeo khẩu trang. T không mang theo giấy tờ tùy thân và khi Công an xã lập lý lịch cá nhân thì T khai tên Huỳnh Thị Ngọc Thúy, sinh năm 1982 là tên chị gái của T. Sau đó, T xin đi vệ sinh và gọi điện cho Thúy đến xã Bù Nho với mục đích thay mình nhận tội, vì trước đó ngày 31/8/2020, T đã bị Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt hành chính về hành vi buôn bán hàng cấm. Sau đó, Thúy đến xã Bù Nho vào phòng vệ sinh nữ và gọi điện cho T ra. T lại xin đi vệ sinh ra gặp T đồng thời hai người đổi quần áo, khẩu trang cho nhau rồi Thúy ra làm việc với Công an xã và nhận mình là người buôn bán thuốc lá còn T thì ra về. Tuy nhiên, quá trình điều tra, T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại công văn số 910/SCT-TM ngày 10/5/2021 của Sở công thương tỉnh Bình Phước xác định: số thuốc lá trên không có tem nhập khẩu, không in hình cảnh báo sức khỏe và chữ viết tiếng Việt. Toàn bộ số thuốc lá nêu trên không đủ điều kiện nhập khẩu và lưu thông tại thị trường Việt Nam.

Tại bản Cáo trạng số: 30/2021/Ctr – VKS ngày 28/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Huỳnh Thị Ngọc T về tội “Buôn bán hàng cấm” theo khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thị Ngọc T phạm tội “Buôn bán hàng cấm” Áp dụng điểm e khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 35 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Ngọc T mức án từ 100.000.000 đồng đến 120.000.000 đồng Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng trong vụ án Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trên và bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng theo quy định pháp luật.

[2] Xét hành vi phạm tội:

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi liên quan, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định tài sản và các tài liệu chứng cứ khác được xét hỏi công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Do mục đích tư lợi cá nhân, muốn kiếm T bất chính nên ngày 27/4/2021, Huỳnh Thị Ngọc T điều khiển xe Honda Wave biển kiểm soát 93M1-058.49 mua trái phép 1.450 bao thuốc lá điếu, trong đó gồm 800 bao thuốc lá hiệu Hero và 650 bao thuốc lá hiệu Jet của người đàn ông tên Đen (không rõ nhân thân, lai lịch) tại huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước với tổng số T 22.540.000 đồng rồi vận chuyển về huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước nhằm bán lại kiếm lời. Khi bị cáo Huỳnh Thị Ngọc T vận chuyển số thuốc trên đến địa phận xã Bù Nho, huyện Phú Riềng thì bị phát hiện bắt quả tang. Mặc dù số thuốc lá chưa đủ định lượng để xử lý trách nhiệm hình sự, nhưng do bị cáo đã bị Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt số T 85.000.000đ (Tám mươi lăm triệu đồng) về hành vi “Buôn bán hàng cấm” theo số 2151/QĐ-XPVPHC vào ngày 31/8/2020, bị cáo chưa chấp hành, chưa được xóa T sự nay lại tiếp tục thực hiện hành vi “Buôn bán hàng cấm” nên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Buôn bán hàng cấm” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm trực tiếp đến sự quản lý của Nhà nước về buôn bán những mặt hàng bị cấm, là nguyên nhân gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người dân và ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an. Bị cáo nhận thức được tác hại do hành vi phạm tội của mình gây ra nhưng vì lợi ích của bản thân nên bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị Ủy ban nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 43/QĐ-XPVPHC với số T 35.000.000đ (Ba mươi lăm triệu đồng) về hành vi “Buôn bán hàng cấm” và bị Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt số T 85.000.000đ (Tám mươi lăm triệu đồng) về hành vi “Buôn bán hàng cấm” theo số 2151/QĐ-XPVPHC vào ngày 31/8/2020 nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới chứng tỏ bị cáo là người có thái độ xem thường pháp luật Với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cân phai xư phạt bị cáo một mức hình phạt tương x ứng để giáo dục, cải tạo bi cáo và cũng để giáo dục, phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, bị cáo đang nuôi con nhỏ, gia đình có công với cách mạng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội ít nguy hiểm có thể tự cải tạo bản thân để trở thành công dân tốt cho xã hội, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo mà áp dụng hình phạt T đối với bị cáo là phù hợp.

Đối với đối tượng tên Đ bán thuốc lá điếu cho T, quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch, do đó Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Riềng tách ra tiếp tục xác minh, xử lý sau nên HĐXX không xem xét.

Đối với hành vi của Huỳnh Thị Ngọc T nhận tội thay cho Huỳnh Thị Ngọc T nhưng chưa gây hậu quả nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là đúng quy định nên HĐXX không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng:

Đối với xe môtô hiệu Honda Wave biển kiểm soát 93M1-058.49, quá trình điều tra xác định thuộc sở hữu hợp pháp của bị cáo Huỳnh Thị Ngọc T và T sử dụng xe mô tô này vào mục đích phạm tội nên cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

Đối với 1.450 bao thuốc lá điếu, trong đó 800 bao thuốc lá hiệu Hero và 650 bao thuốc lá hiệu Jet là vật chứng vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp nên được HĐXX chấp nhận.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh, áp dụng pháp luật và mức hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thị Ngọc T phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Áp dụng điểm e khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 35 Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Ngọc T 110.000.000đ (Một trăm mười triệu đồng) nộp vào Ngân sách nhà nước

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 1.450.000 bao thuốc lá điếu, trong đó 800 bao thuốc lá hiệu Hero và 650 bao thuốc lá hiệu Jet Tuyên tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước đối với 01 Honda Wave biển kiểm soát 93M1-058.49 (Số khung: RLHHC120XBY379204; Số máy: HC12E-3179203) (Theo biên bản giao nhận vật chứng số 0011763 ngày 23/8/2021 giữa Công an huyện Phú Riềng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Riềng)

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết về án phí, lệ phí: Buộc bị cáo Huỳnh Thị Ngọc T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 71/2021/HSST

Số hiệu:71/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Riềng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về