TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 06/2021/HS-PT NGÀY 29/10/2021 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Trong ngày 29 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 05/2021/TLPT-HS ngày 04/10/2021 đối với bị cáo Võ Tấn Đ do có kháng cáo của bị cáo Võ Tấn Đ đối với bản án hình sự sơ thẩm số 59/2021/HS-ST ngày 13/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Võ Tấn Đ, tên gọi khác: không; sinh ngày 21 tháng 3 năm 1999 tại Quảng Ngãi; nơi cư trú: thôn C, xã N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Tấn T và bà Lê Thị P; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 02/6/2017, bị Công an xã N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 06/QĐ-XPHC bằng hình thức phạt tiền với số tiền là 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, bị cáo chưa thi hành xử phạt vi phạm hành chính, đến nay đã hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn“Cấm đi khỏi nơi cư trú”, bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa;
Bị cáo không kháng cáo nhưng có liên quan đến kháng cáo:
Họ và tên: Đặng Duy A (tên gọi khác: M), sinh ngày 04/4/1998 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: thôn C, xã N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Duy A và bà Dương Thị T; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: ngày 18/12/2019, bị Công an xã N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 25/QĐ-XPHC bằng hình thức phạt tiền với số tiền là 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép (xóc đĩa)” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 26 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ, bị cáo chưa thi hành xử phạt vi phạm hành chính, đến nay đã hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, bị cáo tại ngoại, vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ 20 phút ngày 22/01/2021, Võ Tấn Đ và Đặng Duy A chuẩn bị bán pháo hoa cho một người đàn ông tại quán cà phê M thuộc địa bàn thôn C, xã N, thành phố Q thì bị Công an xã N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi phát hiện và bắt quả tang; tang vật thu giữ được gồm:
- 05 khối dạng hình hộp, mỗi khối có kích thước 16,5cm x 16,5cm x 10cm, phía bên ngoài được bọc lớp giấy có in hình pháo hoa nổ cháy sáng nhiều màu sắc và chữ nước ngoài (bị cáo được khai là pháo hoa nổ). Bên trong mỗi khối có 49 ống hình trụ tròn, mỗi ống có đường kính 02cm và chiều dài 10cm, được xếp thành 07 hàng, mỗi hàng có 07 ống liên kết với nhau tạo thành 01 khối hình hộp.
- 01 Giấy chứng minh nhân dân số 212577X do Công an tỉnh Quảng Ngãi cấp ngày 30/6/2014 mang tên Võ Tấn Đ, sinh ngày 21/3/1999.
- 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô 047220, biển số kiểm soát 76B1- 389.X mang tên Võ Tấn T, sinh năm 1967; địa chỉ: Thôn C, xã Nghã Phú, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
- 01 Giấy phép lái xe số 510190007X do Sở Giao thông Vận tải tỉnh Quảng Ngãi cấp ngày 12/8/2019 mang tên Võ Tấn Đ, sinh ngày 21/3/1999.
- 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 5S, màu trắng – vàng đồng, số Imei: 013846008331309, bên trong có gắn 01 sim điện thoại mạng Viettel có số thuê bao: 0348.847.X (đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong).
- 01 xe mô tô biển số kiểm sát 76B1-389.X, nhãn hiệu: Yamaha sirrius, màu sơn: Đỏ - Đen, số máy: E3X9E150210, số khung: 3240HY058512 của ông Võ Tấn T.
- 01 xe mô tô biển số kiểm soát 76E1 - 202.X, nhãn hiệu: Hon đa AirBlade, màu sơn: Đen - Đỏ, số máy: 0137821, số khung: 114876 (đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong).
Sau đó Công an xã N đã mời Đ và A về trụ sở để làm việc và chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi điều tra, làm rõ, xử lý hành vi theo thẩm quyền.
Quá trình điều tra, các bị cáo khai nhận: Do không có tiền tiêu xài, Võ Tấn Đ nảy sinh ý định mua pháo hoa bán lại cho người khác vào dịp tết Nguyên Đán để kiếm tiền lời. Trong khoảng thời gian đầu tháng 01 năm 2021, Võ Tấn Đ đặt mua 05 hộp pháo hoa từ một người đàn ông trên mạng xã hội Facebook với số tiền 3.500.000 đồng. Vào sáng ngày 22/01/2021, có người sử dụng tài khoản mạng xã hội Facebook tên “Nguyễn Thị Thu H” nhắn tin cho Đặng Duy A để đặt mua 05 hộp pháo hoa. Do trước đó A biết bị cáo Đ có bán pháo hoa, nên A chủ động giới thiệu người mua pháo hoa cho Đ bán. Thông qua A làm trung gian, Đ và người sử dụng tài khoản Facebook “Nguyễn Thị Thu H” đã thỏa thuận mua bán 05 hộp pháo hoa với tổng cộng số tiền là 6.850.000 đồng. Đến khoảng 14 giờ 20 phút cùng ngày, Đ và A mang 05 hộp pháo hoa nổ đến quán cà phê M thuộc địa phận thôn C, xã N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi để bán cho một người đàn ông, trong lúc đang giao nhận thì bị Công an xã N phát hiện bắt quả tang, người đàn ông mua pháo của Đ đã bỏ chạy nên Công an xã N không bắt giữ được.
Tại Kết luận giám định số 164/KLGĐ - PC09 ngày 17/02/2021 của Phòng PC09 Công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận: 05 (năm) khối dạng hình hộp gửi giám định là pháo, loại pháo hoa nổ, khối lượng 8,9kg. Hoàn lại đối tượng còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm 8,3kg pháo hoa nổ.
Tại bản Kết luận giám định số 241/KLGĐ-PC09 trích xuất trong ứng dụng Meseenger của Facebook: Có 63 tin nhắn đi và 115 tin nhắn đến giữa chủ tài khoản có tên “Võ Tấn Đ” với chủ tài khoản tên “Đặng Duy A”; có 05 tin nhắn đi và 05 tin nhắn đến giữa chủ tài khoản có tên “Võ Tấn Đ” với chủ tài khoản “Pháo tết uy tín 2021”; không có dữ liệu cuộc gọi đi và cuộc gọi đến; điện thoại không cài đặt ứng dụng Zalo; không có dữ liệu trong thẻ sim.
Các bị cáo không có khiếu nại gì và thống nhất với Kết luận giám định nêu trên.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 59/2021/HS–ST ngày 13/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi:
Tuyên bố: bị cáo Võ Tấn Đ, Đặng Duy A phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.
- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50 và khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Võ Tấn Đ 02 (hai) năm tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 190, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 17, Điều 58 và khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đặng Duy A 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 27/8/2021, bị cáo Võ Tấn Đ có đơn kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt.
cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Tấn Đ vẫn giữ nguyên nội dung kháng Tại phần kết luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đề nghị Hội đồng xét xử:
Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo Võ Tấn Đ, Đặng Duy A về tội “Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Xét kháng cáo của bị cáo Võ Tấn Đ thì thấy, tại cấp sơ thẩm bị cáo Võ Tấn Đ cung cấp giấy chứng nhận liệt sĩ của ông Võ Văn T (BL 79) là ông nội của bị cáo Võ Tấn Đ. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự được áp dụng cho bị cáo. Nhưng quá trình áp dụng pháp luật, Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này cho bị cáo là có thiếu sót. Ngoài ra, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; lượng pháo nổ của bị cáo buôn bán là 8,9 kg (ở khoảng đầu của khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự). Nhưng Tòa án sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 02 năm tù về tội “Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự là nặng.
Đối với hành vi của bị cáo Đặng Duy A: Bị cáo Đặng Duy A không có kháng cáo, tuy nhiên, quá trình xem xét, đánh giá toàn diện vụ án thì thấy hành vi của Đặng Duy A chỉ là người giúp sức trong vụ án; không có vụ lợi; lượng pháo nổ của bị cáo buôn bán là 8,9 kg (ở khoảng đầu của khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự), sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nhưng Tòa án sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự là nặng.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Tấn Đ. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 59/2021/HS – ST ngày 13/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi. Xử phạt bị cáo Võ Tấn Đ từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù, Đặng Duy A từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù đều về tội “Buôn bán hàng cấm” tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Võ Tấn Đ thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Để có tiền tiêu xài cá nhân, Võ Tấn Đ nảy sinh ý định mua pháo hoa nhằm mục đích bán lại cho người khác vào dịp Tết Nguyên Đán để kiếm lời. Vào khoảng 14 giờ 20 phút ngày 22/01/2021, thông qua Đặng Duy A giới thiệu người mua pháo nổ có tên facebook là “Nguyễn Thị Thu H”, Võ Tấn Đ và Đặng Duy A mang 05 hộp pháo hoa nổ đến quán cà phê M thuộc địa phận thôn C, xã N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi để bán cho một người đàn ông với giá tiền là 6.850.000 đồng. Trong lúc đang giao nhận pháo hoa thì bị Công an xã N phát hiện bắt quả tang. Tại bản kết luận giám định số 164/KLGĐ-PC 09 ngày 17/02/2021 của Phòng PC 09 Công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận 05 khối dạng hình hộp gửi giám định là pháo, loại pháo hoa nổ, khối lượng 8,9 kg. Do đó, Tòa án sơ thẩm xét xử các bị cáo Võ Tấn Đ, Đặng Duy A về tội “Buôn bán hàng cấm” với tình tiết định tội “buôn bán pháo nổ từ 06 kilôgam đến dưới 40 kilôgam” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo Võ Tấn Đ, thì thấy:
Tại giai đoạn điều tra, bị cáo Võ Tấn Đ cung cấp giấy chứng nhận liệt sĩ của ông Võ Văn T (BL 79) là ông nội của bị cáo Võ Tấn Đ. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự được áp dụng cho bị cáo. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này cho bị cáo là có thiếu sót, cấp phúc thẩm áp dụng thêm cho đầy đủ. Ngoài ra, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Võ Tấn Đ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; lượng pháo hoa của bị cáo buôn bán là 8,9 kg (ở khoảng đầu của khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự). Nhưng Tòa án sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 02 năm tù về tội “Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự là nặng so với hành vi của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Tấn Đ, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 59/2021/HS- ST ngày 13/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi, giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.
[3] Đối với hành vi của bị cáo Đặng Duy A: Bị cáo Đặng Duy A không có kháng cáo, không bị kháng nghị, tuy nhiên, quá trình xem xét, đánh giá toàn diện vụ án thì thấy hành vi của Đặng Duy A chỉ là người giúp sức trong vụ án, bản thân bị cáo không có vụ lợi, lượng pháo hoa nổ của bị cáo buôn bán là 8,9 kg (ở khoảng đầu của khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự), sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nhưng Tòa án sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự là nặng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã cân nhắc, chấp nhận kháng cáo giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Võ Tấn Đ. Do đó, để đảm bảo tính công bằng cho các bị cáo được xét xử trong cùng một vụ án, cấp phúc thẩm quyết định áp dụng khoản 3 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự xem xét, quyết định sửa phần hình phạt đối với bị cáo Đặng Duy A, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Đặng Duy A.
[4] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Về án phí:
Do chấp nhận kháng cáo, nên bị cáo Võ Tấn Đ không phải chịu án phí phúc thẩm.
Bị cáo Đặng Duy A không phải chịu án phí phúc thẩm.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 345; điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Võ Tấn Đ. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 59/2021/HS-ST ngày 13/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Võ Tấn Đ 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Buôn bán hàng cấm”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
2. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 59/2021/HS-ST ngày 13/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi về phần quyết định hình phạt đối với bị cáo Đặng Duy A.
Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Đặng Duy A 12 (mười hai) tháng tù về tội “Buôn bán hàng cấm”, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.
3. Về án phí:
Bị cáo Võ Tấn Đ không phải chịu án phí phúc thẩm.
Bị cáo Đặng Duy A không phải chịu án phí phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 06/2021/HS-PT
Số hiệu: | 06/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về